( Hẻm 58 - Yên Đổ - Tân Định )
Trần Đình Phước
Kính dâng lên hương hồn song thân, các ông bà, cô chú bác, các bạn cùng trang lứa, những ai đã từng đến và đã ra đi vĩnh viễn từ con hẻm nhỏ này. Thân tặng các bạn đã từng có một tuổi ấu thơ trong những con hẻm nhỏ thân thương, nghiệt ngã và nhọc nhằn của thành phố Sàigòn. Dù đã bao nhiêu năm rời xa con hẻm nhỏ, nơi đã cho tôi rất nhiểu kỷ niệm, nhưng ký ức về tuổi thơ không thể nào nhạt nhoà trong tôi! Xin có vài hàng ghi lại về môt con hẻm ở vùng Tân Định. Đó là hẻm 58, nay là hẻm số 52, còn gọi là Xóm Giếng, nằm trên đưòng Yên Đổ (tên cũ Champagne, tên mới Lý Chính Thắng.) Bên kia là đường Huỳnh Tịnh Của (Monceaux). Hẻm cách đường Hai Bà Trưng (Paul Blancy) khoảng hơn một trăm thước, đi ra được hẻm 60 - Xóm Cù Lao. Phía cuối xóm Giếng, ngăn cách bằng môt cái giậu được xây bằng gạch xi măng, dẫn ra đường Hai Bà Trưng. Trước kia, hẻm 58 là một nghĩa trang. Môt goá phụ người Việt mua. Bà cất thành hai mươi bốn căn nhà gỗ, lợp ngói âm dương cho bà con nghèo thuê. Vài năm sau, vì hoàn cảnh khó khăn, nên phải bán lại cho một công ty người Ấn Độ. Cứ mỗi đầu tháng, có một anh thư ký Chà Và giọng nói lơ lớ, cái bụng phệ, và hai con mắt tròng trắng nhiều hơn tròng đen đến gõ cửa từng nhà, để thu tiền mướn phố. Khi thấy ông ta xuất hiện, trẻ con trong xóm thường chạy theo, lấy ngón tay cái đè lên trên mũi. Rồi ngoắc bốn ngón tay còn lại. Cùng reo: ”Chà Dà, Ma Ní, Tí Te. Cái Bụng thè lè, Con mắt ốc bu. Hù! Hú! Hu!” Xin được giới thiệu Xóm Giếng của tôi từ ngoài hẻm đi vào như sau: Bên trái là phòng mạch Bác Sĩ Trần Đình Ngân. Ông tốt nghiệp ở Pháp về. Rất tiếc, ông mất khi tuổi đời còn rất trẻ. Sau khi ông mất. Bác Sĩ Vũ Ban đến tiếp tục. Bệnh nhân của Bác Sĩ Ban đa số là phụ nữ. Có lẽ bác sĩ đẹp trai, cao ráo, dáng người hào hoa, phong nhã? Ông từng là Dân Biểu Quốc Hội thời VNCH và Chủ Tịch Phù Luân Hội Sài Gòn. Đặc biệt, đối với bệnh nhân nghèo, ông đều giúp đỡ tận tình. Chẳng những không lấy tiền, mà còn tặng họ thuốc mang về nhà. Bên phải là tiệm may Xuân Liên, cũng là tên con gái duy nhất của ông bà chủ. Cô có gương mặt trái soan, đẹp, thùy mị và học giỏi. Sau này tiệm may Xuân Liên sang lại cho một phụ nữ gốc Huế, được đổi tên thành Nhà May Phương Mai. Hẻm 58 có một cây Mận, cho trái to và ngọt. Một cây Vú Sữa, với trái cũng to, màu tím. Khi mùa mận và vú sữa đến, con nít trong xóm thường lén leo lên hái, hoặc dùng dép, guốc, gạch liệng lên cây. Khi những trái mận, vú sữa rớt xuống đất, cả đám cùng nhau chạy đến giành giựt. Đứa nào mạnh thì được, còn yếu thì thua. Chưa kể là quần áo bị nhầu rách, dính đầy đất cát. Có em còn bị "lỗ mũi ăn trầu, cái đầu xỉa thuốc." Phía cuối xóm có bốn cầu tiêu thùng. Cứ ba đêm, một người đàn ông ngoài năm mươi tuổi đến dọn dẹp vệ sinh. Không ai biết tên thật của ông là gì. Bà con trong xóm quen gọi là ông Đổ Thùng. Miệng ông lúc nào cũng nhai trầu bỏm bẻm và thường say xỉn. Đêm nào dọn vệ sinh, thì sáng hôm sau sẽ thấy vài chiến lợi phẩm còn rơi rớt trong xóm. Tạo cho không khí cả xóm đượm một mùi thơm đặc biệt, phải mất cả ngày mới bay đi hết! Chính giữa xóm là một cái giếng. Vì thế hẻm còn được gọi là Xóm Giếng, nằm cạnh cây mận, phía trước nhà số 58/10. Đó là nhà ông bà Tám Ph.... Ông bà có tất cả mười một người con thứ tự như sau: Tánh, Thu, Xuân, Bé, Phụng, Huệ, Mai, Hường, Quang, Hiền và Liêm. Khoảng giữa thập niên 60, ông bà thầu đóng thùng cho cơ quan USOM và MACV của Hoa Kỳ, để chuyển hàng về nước. Bà con trong xóm, được thuê: tháo, đóng, gói thùng. Những khi cần thùng gấp. Đèn điện sáng suốt đêm, chuyện trò huyên thuyên. Tiếng búa, đinh nện rầm rập, nhưng không thấy ai khiếu nại hay than phiền gì hết! Vì ông bà có công mang lại việc làm cho bà con. Một gia đình đông con thứ hai là nhà ông bà Tư B… số 58/22. Các con của ông bà được đặt tên rất có vần, tựa như thơ: Hồ, Sơn, Hải, Hà, Lâm, Chung, Thủy. Theo bà con lớn tuổi trong xóm cho biết. Ông bà sinh đứa con gái đặt tên Chung coi như cuối cùng sẽ không tiếp tục sản xuất nữa! Nhưng năm sau kế hoạch bị bể, lại thêm một công chúa chào đời được đặt tên là Thủy. Xóm Giếng có bốn gia đình tráng bánh cuốn hơi. Vừa bán lẻ cho bà con trong xóm và các xóm lân cận, vừa bỏ mối cho bạn hàng ở các chợ Tân Định, Đa Kao, Bà Chiểu và Phú Nhuận: Bà Thọ (58/5), Bà Tỵ (58/6), Bà Thi (58/12) và Bà Triển (58/24). Cả bốn bà đã lần lượt cùng hẹn gặp nhau rong chơi nơi suối vàng. Trong bốn bà tráng bánh cuốn hơi chỉ có nhà bà Thọ có cối xây bột làm bằng đá. Chồng bà và các con thay phiên nhau xay cho khách, để về làm bánh xèo, bánh bèo, bánh đúc, bánh giò, bánh khọt... Riêng ba bà còn lại thì thuê nơi khác xay. Muốn tráng thành một cái bánh cuốn thì phải trải qua nhiều công đoạn và kỹ thuật tỉ mỉ. Bắt đầu từ chọn gạo thích hợp. Có bốn loại gạo thường dùng để làm bột: Nàng Hương Chợ Đào, Nanh Chồn, Sóc Nâu và Tráng Tép. Gạo phải được ngâm nước trước một ngày. Sau đó xay thành bột. Nhưn bánh cuốn gồm: hành tím, củ sắn, nấm mèo, tóp mỡ. Gạo không đúng, pha nước nhiều, pha không đúng cách, đến khi tráng sẽ không ra được bánh. Nếu nhưn băm không nhuyễn khi cuốn lại bánh sẽ rách. Tay mà lọng cọng, khi lấy bánh từ khuôn trong nồi ra sẽ rơi xuống bếp lửa. Khuôn được làm bằng tre hay kim loại, cuốn vòng tròn theo miệng nồi. Vải dùng bọc khuôn thường là loại Popeline Ba Trái Đào. Thời đó chỉ nấu bằng củi. Nên luôn luôn phải đề cao cảnh giác tối đa. Lơ tơ mơ một chút là có thể gây ra hoả hoạn. May mắn thay, trong bao nhiêu năm các lò bánh cuốn xóm Giếng chưa hề gây ra bất cứ một tai nạn nào liên quan đến lửa củi. Sau khi tráng bánh cuốn xong. Củi lửa được dập tắt cẩn thận, còn lưu lại một ít than vụn. Than này được ủ trong lu hay khạp sành. Sau đó đem bán lại rẻ cho những người quạt bánh tráng, bán bắp nướng, bán chuối nướng, bán hột vịt lộn... Khoảng năm 1970 thì các bà chuyển sang dùng lò xài dầu hôi. Tiện lợi và an toàn hơn dùng củi. Bà Cà, còn có tên là bà Bản là chủ bánh cuốn Tây Hồ - Đa Kao nổi tiếng, đã từng đến xóm Giếng học nghề, trước khi mở quán bánh cuốn bình dân ở đền thờ Phan Chu Trinh từ năm 1960. Sau năm 1975. Bánh cuốn Tây Hồ chuyển ra đường Đinh Tiên Hoàng, góc Huỳnh Khương Ninh, nằm đối diện xe bánh mì Bảy Quan. Bà Cà mất năm 2005. Hiện nay, hai người con gái và một con trai, phát triển thành ba tiệm bánh cuốn Tây Hồ. Căn nhà ông bà Thọ - 58/5 tuy diện tích nhỏ, nhưng vào năm 1954 khi có phong trào di cư từ miền Bắc vào Nam đã từng chứa được năm gia đình. Trong số đó có gia đình: cô Tư bán miến gà, nổi tiếng ngon nhất chợ Tân Định, gia đình ông bà Dậu và con trai tên khai sinh là Bình, tên gọi ở nhà là Dậu, vì tuổi con Gà (Ất Dậu - 1945). Bà Dậu là kế mẫu của anh Bình. Khoảng một năm sau, ông bà Dậu dọn qua xóm Lách. Sau đó chuyển sang hẻm số 288. Còn được gọi là hẻm Bắc Kỳ Di Cư. Có lẽ, hầu hết bà con trong hẻm đều đi cư từ miền Bắc vào? Phở Bà Dậu - Công Lý bắt đầu từ đây. Khởi nghiệp với một chiếc xe nhỏ, hai cái bàn cũ kỹ, vài cái ghế thấp lè tè, được che bằng tấm bạt nylon, núp dưới tàn cây trứng cá. Phở bà Dậu có hương vị đặc biệt so với các nơi khác. Nên khách kéo đến thưởng thức mỗi ngày một đông hơn. Mặc dù, giá một tô phở tương đối cao. Thực khách đến ăn đều khen được chủ nhân tiếp đón niềm nỡ, lịch sự và giữ xe không phải trả tiền. Bà Dậu Công Lý và Bà Cà Bánh cuốn Tây Hồ đã quy tiên. Tuy nhiên, các con của hai bà vẫn tiếp tục sự nghiệp Phở và Bánh Cuốn tại Sài gòn. Không có ai đang sống ở nước ngoài! Bây giờ, trên bảng hiệụ tiệm có thêm chữ “Quán không có chi nhánh.” Nếu như ở nhiều nơi. Chúng ta thấy các cửa tiệm trương bảng hiệu quảng cáo Bánh Cuốn Tây Hồ, hay Phở Bà Dâu chính gốc. Đó chỉ là bắt chước tên mà thôi! Hay còn gọi là “Hàng Nhái.” Có lẽ! Các chủ nhân thấy hai cái tên này có tiếng tăm chút đỉnh, nên tự động đặt tên cho quán mình. Nhằm mục đích gây chú ý và lôi cuốn khách. Nhắc lại một chút kỷ niệm về hương vị ẩm thực Sàigòn trước năm 1975. Dù bây giờ, đang dần đần phai mờ trong tâm trí của nhiều người. Một căn nhà khác là nhà ông bà Tư Đ… 58/21. Ông hành nghề hớt tóc ở hẻm 32, đường Yên Đổ, kế bên nhà thuốc Đông Y Trần Gia Viên và lò bánh mì Thuận Thái. Đồ nghề của ông gồm: một cái ghế, một cái kiếng, một cái thùng nhỏ đựng tông đơ, kéo, dao cạo, chai xịt nước, cái khăn lông và một sợi dây nịt bằng da để mài dao cạo. Vào dịp tựu trường hay sắp Tết, khách hàng của ông rất đông. Tuy đã ngoài 80 tuổi, ông vẫn còn hành nghề. Ông mới mất năm 2010, lúc chín mươi chín tuổi rưỡi. Ông thường chơi số đề và chọn con số 11 là con chó nhỏ. Hôm nào mở Radio nghe ra số 11 là coi như 100% ông trúng. Nếu ra con chó lớn 51 và 91 thì ông lầm bầm, tiếc hùi hụi. Phải chi chịu bỏ tiền ”bao” thêm hai con chó nữa thì hay biết mấy! Còn bà Tư bán đủ các loại khô trước hẻm 60 Yên Đổ - Xóm Cú Lao. Bắt đầu từ sáu giờ chiều cho đến nửa đêm về sáng. Bà chọn khô mực rất kỹ. Con nào, con nấy đều đáng đồng tiền bát gạo. Khô được nướng trên than hồng. Sau đó, dùng búa đập khô trên cục đá. Khi khách ăn thì chấm với tương đen, tương ớt và đồ chua. Dân nhậu thích mực đập trên đá hơn là xay bằng đồ xay. Vì khô được đập trên đá sẽ giữ được hương vị đậm đà và không mất mùi. Bà bán Rượu Đế Gò Đen chính hiệu con nai vàng. Các con khô được treo lủng là lủng lẳng rất hấp dẫn. Rượu được trưng bày trên một cái bàn nhỏ. Chứa trong các chai loại một lít. Đặc biệt, có chai ngâm thêm con “Bìp Bịp”, có chai ngâm cặp “Rắn Hổ”, để dành cho khách nào có yêu cầu “Ông nhúc nhích, mà Bà không hay!” Đa số khách là dân lao động, xe ba gác, xích lô đạp…Ban ngày lo đi cày. Chiều tối về ghé lai rai vài chung cho lấy lại sức, để quên đi một ngày mệt nhọc. Cuối tuần rủng rỉnh thì chơi vài xị cho quên sầu đời! Sau đó về nhà la lối vợ con, rồi đi ngủ. Bà Tư đã mất. Hiện nay sự nghiệp khô mực, do hai con gái bà vẫn còn độc thân quán xuyến. Tính ra bàn khô mực đã trên nửa thế kỷ. Cục đá dùng đập khô mực vẫn bền bỉ, chịu đựng theo “Ngày vui qua mau, ngày buồn không bao giờ đến.” Những ai thích tìm săn đồ cổ hãy chuẩn bị đặt cọc trước. Có thể, nó được xếp vào loại quí hiếm còn sót lại của Sài gòn hoa lệ? Một gia đình nữa mà bà con lối xóm và các xóm chung quanh rất “ngán càng”là gia đình bà Ch.., số nhà 58/4. Bà Ch.. cùng hai con gái là L.. và Q.. hành nghề gánh nước mướn, chuyên cung cấp nước cho các xe bán hàng ăn uống, và một số nhà trong vùng. Gia tài nhà bà có mấy chục đôi thùng hai mươi lít. Loại thùng dùng đựng dầu hôi, hiệu con Gà. Tất cà được xếp dọc theo máy nước, chưa kể những thùng móp, méo, cục gạch, đôi dép cũ, cũng được gia đình bà đem sắp hàng lấy chỗ. Tự cho phép mình độc quyền máy nước một vòi, ở đầu hẻm 60 - Cù Lao. Lúc nào cũng dành ưu tiên hứng trước. Chỉ nhường lại cho thiên hạ, khi phải quảy gánh đi giao nước. Ai cự nự, yêu sách, lý sự, đòi hứng trước là cả gia đình bà nhào vô “A Láp Xô.” Tay đánh, miệng chửi, múa đòn gánh. Làm bà con sợ xếp re. Vì thế, để khỏi đụng chạm và phiền phức”Tránh voi, không hổ mặt người.”Họ đành phải thức khuya, chờ đến nửa khuya mới dám ra hứng. Sau này, nhiều gia đình trong xóm được gắn vòi nước vô trong nhà, nên ít ai thuê gia đình bà giao nước nữa! Từ đó mức thu nhập của gia đình bà bị ảnh hưởng trầm trọng. Các con bà chuyển sang bán rượu bình dân trước mái hiên nhà. Khách nhậu ngồi trên bộ ván nhỏ. Vài cái bàn và các chiếc ghế xập xệ, chiếm cả lối đi. Bà con trong xóm không ai dám lên tiếng, vì ngán những cái miệng dữ dằn của gia đình này. Các anh xích lô, ba bánh, xe ôm, thợ nề, thợ mộc, mua ve chai... thường kéo đến nhậu từ sáng cho đến tối. Say quá, nên xả sút bắp ngay đầu hẻm, làm ô uế cả xóm. Chưa kể, lúc quá say, hát hò, rượt đuổi con nít và phụ nữ đi ngang qua chạy có cờ. Đôi khi cùng bàn nhậu, lời qua tiếng lại. Ai cũng cho mình đúng, người khác sai. Thế là đưa đến ẩu đả. Làm ồn ào, mất trật tự, náo loạn cả xóm. Phường, khóm được gọi đến giải quyết và cảnh cáo. Im im được vài ngày. Rồi đâu cũng vào đó! Quán nhậu vẫn tồn tại được một thời gian, do cháu nội gái bà tiếp nối. Bây giờ thì căn nhà đã bán cho người khác, vì nợ nần, đề đóm và chia gia tài cho đám cháu đang gặp khó khăn. Cháu nội trai của bà tên T.., tức N… Chó, hay N… Đầu Bò chỉ huy một đám đàn em ở cầu Kiệu. Họ chuyên săn bắt chó từ trong thành phố, ra đến ngoại ô, và các vùng lân cận, để cung cấp cho các quán cờ Tây. Dụng cụ hành nghề gồm: xe gắn máy, một ống nước dài khoảng một thước, với thòng lọng làm bằng dây cáp và một bao bố. Chó lang thang chạy rong, hay chủ nhân thả chó làm vệ sinh, chỉ cần lơ đễnh. Một chiếc xe gắn máy chạy trờ tới. Tên ngồi phía sau, với động tác chuyên nghiệp và thành thạo. Trong tích tắc “Em” sẽ chui ngay vào bao bố, không kịp la ú ớ, để kêu chủ mình cứu bồ. Khi chủ nhân biết được, thì chỉ còn thấy làn khói xe gắn bay nhè nhẹ để lại. Nếu thương con vật yêu dấu của mình, thì lo chạy ngay đi tìm chỗ xin chuộc. Sau mỗi đợt “hành quân” về chó được đem phân loại. Nếu loại thường thì được giao cho các quán thịt chó thanh toán ngay trong ngày. Riêng chó kiểng, chó đẹp, chó có giá trị thì đem chụp hình, cho vào album, chờ thêm vài ngày, để chủ nhân đến nhận diện xin chuộc theo luật giang hồ. Đa số khách hàng chuộc chó, vì thương con vật đã bao năm quấn quít với mình, hay con em họ thương con vật bỗng dưng biến mất, nên sinh ra buồn, làm biếng ăn uống, chẳng còn tha thiết đến chuyện học hành. Do đó, họ đành phải bỏ ra một số tiền chuộc theo yêu cầu. Đôi khi, chủ nhân phải bỏ ra một số tiền rất lớn. Nếu như chó của họ thuộc loại “Quý Cẩu.” Trường hợp, nhờ chính quyền can thiệp, nhúng tay vào, thì dân cho chuộc chó nói “Họ chỉ làm ơn, làm phước, đứng ra làm trung gian giùm. Chứ đâu có được hưởng gì trong đó, mà gây rắc rối cho họ?” Rồi họ năn nỉ xin một số tiền nhỏ gọi là trà nước. Theo dư luận, chưa bao giờ có chuyện “trục trặc kỹ thuật", hay "bể mánh” giữa người đi chuộc và bên cho chuộc. Coi như một “hợp đồng bất thành văn” và “hoàn toàn tuyệt đối tôn trọng luật giang hồ.” Người chuộc sau khi nộp đủ tiền xong sẽ được cho biết địa điểm “cục cưng” của mình đang được cột ở một ngã tư nào gần đó! Chủ nhân tự động đến sẽ thấy “Em Yêu Dấu Ơi!” đang ngoe nguẩy, vẫy đuôi mừng rỡ từ xa. Như thầm cảm ơn chủ đã cứu mạng mình không bị hoá kiếp như các bạn cùng cảnh ngộ. Hiện nay N… đã gỉải nghệ. Có lẽ tin theo luật nhân quả? Sợ con cái bị ảnh hưởng không tốt về sau. Bây giờ, anh chuyển sang nghề cho vay với phân lời tương đương với các tiệm cầm đồ bình dân trong vùng. Chiều chiều chơi vài ly xây chừng với các em út cho quên sầu đời. Đối diện nhà bà Ch.. là nhà ông bà Sáu H.. số 58/8. Căn nhà nằm cạnh một khoảng đất trống, sát bên cái giếng. Con nít trong xóm thường kéo đến đây chơi: bắn đạn, tạt lon, tạt hình, đá banh, đánh đáo, năm mười, bắt cú, giựt khăn, u bắt mọi, nhày dây, nhảy lò cò, đá cầu, đánh bông vụ... Nên hay la hét ồn ào. Ông Sáu thường lấy vòi nước ra xịt làm ướt đất. Chủ đích là không muốn cho con nít chơi. Đôi khi “các chiến sĩ” đang lum khum kè đạn vô lỗ, đang lừa banh, chuẩn bị sút, đang quất bông vụ, hay đang nhảy dây. Bất ngờ, ông Sáu xuất hiện. Hai tay ông lẹ làng tịch thu các chiến lợi phẩm. Lúc đó dân chơi con nít chỉ biết lo bỏ của, chạy lấy người. Sau đó, đứng từ xa. Đếm một, hai,ba.Tất cả cùng la: “Ông Sáu Già, Lái Ếch Ba, Bẹt Cà Na, Chết thành Ma, đưa ra nhị tì, tù tí ti!” Lâu lâu, ông phục kích chộp được một em nào chẳng may chậm chân. Ông lôi xềnh xệch, đem tới nhà máng vốn cha mẹ. Ông nói: ”Con mấy ông bà không biết dạy. Tui đem trả cho ông bà dạy nè!” Thế là em bé nạn nhân bị đánh đòn, để cho ông Sáu mát lòng, hả dạ phần nào. Có trường hợp đang lôi gần đến nhà. Các em cắn vào tay ông Sáu. Ông đau quá, nên buông tay ra. Em coi như thoát nạn. Ông đứng như trời trồng. Đưa hai tay lên trời và hứa hẹn “Lần sau các con sẽ không bao giờ thoát ta đâu!” Có thể nói ông Sáu là hắc tinh, là hung thần của con nít xóm Giếng. Giờ đây ông đã đi xa! Lâu lâu nhắc lại về ông, cũng thấy một thoáng bùi ngùi, nhơ nhớ! Con trai duy nhất của ông bà Sáu H.. là Trưởng Hướng Đạo Việt Nam kỳ cựu Nguyễn Hiếu Trung - Đạo Trưởng Đạo Bến Nghé, thuộc châu Gia Định. Lúc đó, hầu hết thanh thiếu niên trong xóm đều được “dụ khị” tham gia hướng đạo. Đồng phục được các anh chị Trưởng hùn tiền lại sắm cho miễn phí. Nhưng chỉ vài tháng, bắt đầu rơi rụng dần dần. Có lẽ! tham gia hướng đạo bị gò bó trong kỹ luật, sinh hoạt theo tập thể, mất thời giờ và không mấy thích hợp với các em đã quen thói lêu lỏng, thích tự do, muốn làm gì, muốn chơi trò gì cũng được? Tuy nhiên, nhờ phong trào Hướng Đạo đã thay đổi được một số trẻ em trong xóm. Các em thấy được những tấm gương tốt, sự hy sinh bất vụ lợi của các Trưởng. Các em được tận tình hướng dẫn, giáo dục theo nguyên lý và phương pháp hướng đạo. Nên đã có chuyển biến phần nào như: lễ phép, bớt chửi thề, chăm học hơn, không trộm cắp và có tấm lòng tha nhân. Hiện nay vẫn còn vài em Xóm Giếng ngày xưa đang tiếp tục cuộc chơi, cố gắng giữ lửa cho phong trào. Trưỏng Trung có giọng hát rất hay, cao vút. Trưởng hát cho ca đoàn nhà thờ Tân Định. Sau này, gia đình chuyển vô Cư Xá Nha Căn Cứ Hàng Không, nằm trong phi trường Tân Sơn Nhất. Sau 1975 dọn về Đông Hưng Thuận- Hóc Môn. Hai ông bà cũng có nhiều con gồm Nga, Hoàng, Long, Lân, Phụng… Xin viết thêm ở đây. Gia đình cua rơ xe đạp vô địch nước rút Nguyễn Văn Châu đã từng thuê căn gác nhỏ của số nhà 58/8. Nghe đâu vợ anh thường bị nhức đầu mỗi khi đêm về. Chị cho biết thường nằm mơ thấy nhiều hiện tuợng ma quỷ, kinh dị, quái đản. Do đó, chỉ mướn được vài tháng, đành phải dọn về lại căn nhà của song thân ở hẻm tiệm chụp hình Văn Hoa số 392, đường Hai Bà Trưng - Tân Định. Cua rơ Nguyễn Văn Châu đã làm rạng danh nền thể thao Việt Nam Cộng Hoà trên các thao trường quốc tế. Cho đến nay, chưa có bất cứ tay đua xe đạp nào của Việt Nam làm được như ông. “Thành tích lẫy lừng, vang dội. Trong cùng năm 1961. Ông đoạt chức vô địch xe đạp nước rút Á châu ở Đông Kinh và Vô địch Đông Nam Á Vận Hội ở Ngưỡng Quang.” Bây giờ tay đua Nguyễn Văn Châu đã ngoài 70 tuổi. Hiện phụ con trai, bán bánh bèo bì, bánh canh và cơm tấm trên đuờng Hai Bà Trưng, dưới chân dốc cầu Kiệu, gần thuốc cam Hàng Bạc, hướng về phía chợ Tân Định. Quán cũng tương đối đông khách, các món ăn ngon, giá bình dân, tiếp đãi lịch sự, và phần nào nhờ tiếng tăm của ông còn vang lại một chút dư âm. Tiếp đến số nhà 58/17 của ông bà Yến. Vì ông bà có hai người con gái tên Yến: Yến chị và Yến em. Cô Yến chị lập gia đình rất sớm. Yến em đẹp hơn, có chồng là Đại úy Địa Phương Quân tử trận ở Long An. Yến em là quả phụ ở tuổi chưa đầy ba mươi. Với sắc đẹp dễ nhìn, có nhiều người muốn đi tới. Nhưng Yến em ở vậy thờ chồng, nuôi con. Hiện nay đã là bà ngoại. Ba của hai cô Yến là ông HĐM, thư ký trường Đại học Luật Khoa Saigòn. Năm nào cứ sắp đến mùa thi, hay chờ công bố kết quả. Các sinh viên thường ào ạt chạy xe vào hẻm xóm Giếng, ghé nhà thăm ông và tặng quà. Chắc là có bàn tay ông đã giúp đỡ chút đỉnh gì đó cho họ? Phần bà Yến bán hủ tiếu bò kho bình dân. Bà con trong xóm kéo đến ăn đông vào buổi sáng, vì giá rất rẻ. Người nào đi làm, sau khi ăn xong, mua bỏ vào gà mên mang theo ăn trưa. Bếp nấu của bà nằm phía sau, gần cầu tiêu của xóm Giậu. Nếu ai thấy giang san sản xuất của bà, chắc không dám ăn! Đặc biệt, bà rất mát tay. Ai đau yếu, tứ thời cảm mạo. Dù đêm hôm, mưa gió, bão bùng. Bà cũng sẵn sàng đến nhà để cạo gió, cắt lể. Đồ hành nghề của bà là đồng xu nhỏ bằng bạc để cạo, cái móc tai để lể và lọ dầu cù là Mác Xu để thoa. Nhiều người nhờ bà, khỏi tốn tiền thuốc men hay đi Bác Sĩ. Sau đó, họ đến ăn ủng hộ bò kho của bà. Cháu ngoại bà tên Trung, con gái đầu lòng của chị Hảo đang bán chè bình dân trước hẻm. Chỉ bán ban đêm. Từ tám giờ đến khoảng nửa khuya. Lúc đầu rất ế ẩm. Bây giờ tiếng tốt đồn xa. Ngon và rẻ. Khách kéo đến ăn nườm nượp, ngay cả những người nước ngoài cũng đến thưởng thức. Hôm nào ế ẩm thì các người quét rác, hay vô gia cư được cô Trung đãi chè miễn phí. Quán chè xập xệ, bán bất kể thời tiết. Thế mà! Cô nuôi các con đều học thành tài. Căn nhà tiếp theo số 58/23. Nhà ông bà Đ…hay còn gọi là Ch... Nhà toàn là con gái. Ông bà chỉ có một quý tử tên Ch... Ông bà rất cưng chìu cậu quý tử này. Anh muốn bất cứ gì cũng được ông bà tối đa thoả mãn. Vùng Yên Đổ, có lẽ anh là người chạy Lambretta màu đỏ trắng đầu tiên. Đi lính anh cũng là lính kiểng. Quanh năm suốt tháng đều thấy tà tà ở Sàigòn. Anh là dân chơi thứ thiệt, nhưng không mang tai, mang tiếng. Tứ thứ ăn chơi trên cõi đời ô trọc. Anh đều có mặt trên mọi tầng cây số. Tham gia tới nơi, tới chốn. Có phần vượt trội hơn người khác. Con cái anh đều thành công. Không đứa nào noi gương anh. Đúng là “Hổ phụ sanh. Nhưng Hổ không tử.” Kế bên là căn nhà 58/24 của ông bà Triển. Gia đình ông bà kiếm thêm thu nhập nhờ hai bàn đá banh tay. Con nít trong xóm và các xóm lân cận đến chơi từ sáng đến tối. Hai con trai chủ nhà tên Tân và Mậu có cú lừa banh tuyệt cú mèo. Lừa tới, lừa lui, lừa xuôi, lừa ngược. Khi thấy đối thủ hơi lơ là, không cảnh giác, bèn đưa ngay một cú “dít” ngọt xớt như cơm sườn vào lỗ, làm bể thùng nước lèo đối phương. Thế là bên ngoài khán giả con nít vỗ tay tán thưởng rầm rộ. Muốn chơi đá banh bàn. Các em phải bỏ đồng năm cắc có hình Tổng Thống Ngô Đình Diệm vào lỗ ở phía dười, nằm giữa bàn. Sau đó giựt mạnh thì banh mới xuống. Có nơi chủ bàn để năm trái banh, có nơi bảy hay chin trái. Luôn luôn là số lẻ. Kết thúc những trận đá banh bàn. Hầu hết các đấu thủ, quần áo, mặt mũi đều dính dầu nhớt tùm lum. Nếu có cá độ, chung nhau không sòng phẳng thì xảy ra gây lộn, rồi ẩu đả, trầy xướt. Về nhà không thể nào giấu cha mẹ được. Đương nhiên là bị đòn! Kể thêm một căn gia đinh chuyên làm bìa lịch cho các công ty, hãng xưỏng, dùng làm quà biếu khách hàn cuối năm - số 58/11. Do anh Phú làm chủ. Vì làm lịch, nên bà con gọi anh là anh Phú lịch. Mỗi năm gia đình anh chỉ cần làm vài tháng là dư sống cho suốt cả năm. Vào mùa làm lịch. Nam phụ, lão, ấu của xóm có thì giờ rảnh, thường được anh thuê để phụ. Kẻ dán hồ, người cắt bìa, đục lỗ. Nếu tay nghề cao hơn thì được giao phụ trách mạ chữ vàng. Làm thâu đêm, suốt sáng để cung cấp cho kịp thời. Xich lô, ba bánh vô ra nườm nượp để chuyển hàng cho kịp. Căn nhà tiếp theo - 58/14 của ông Ba Hoá. Ông chuyên môn ráp kiếng gió xe và lót cao su đệm cửa cho xe hiệu Peugeot. Lúc đầu, ông làm cho Sàigòn Xe Hơi Công Ty, nằm trên Đại Lộ Thống Nhất, đối diện Nhà Thờ Đức Bà - Sàigòn, hay còn được gọi là Vương Cung Thánh Đường. Về sau, ông xin nghỉ ở đây, để làm tại nhà. Các chủ xe thường tìm đến nhà ông làm, vì giá rẻ và không phải chờ lâu. Ông bà không có con. Nên, nhận ba đứa con của người em đem về làm con nuôi và cho ăn học đàng hoàng. Nhưng, chẳng đứa nào ra cơm cháo gì hết! Và căn nhà cuối cùng là nhà của vợ chồng anh Chính - 58/22. Anh là Võ Sư Thái Cực Đạo. Các con anh đều được cho học võ từ nhỏ. Anh bắt chúng tập tành miệt mài: đấm, đá, giựt cùi chỏ, lên gối, đập đầu vào bao gạo, bên trong nhét đầy vải vụn. Anh hy vọng các con sẽ nối nghiệp võ nghệ của mình. Anh qua đời ở San José, vì căn bệnh ung thư, khi tuổi ngoài năm mươi. Chỉ có con trai đầu lòng của anh theo võ nghiệp là Võ Sư Nguyễn Thạc. Hiện mở võ đường Thái Cực Đạo, mang tên Thanh Long, thuộc thành phố Milpitas - miền bắc California. Số võ sinh đến xin thọ giáo rất đông. Chuyện hẻm 58 - Xóm Giếng. Cũng giống như muôn ngàn con hẻm nhỏ bình dân của Sàigòn. Sáng, trưa, chiều, tối với những tiếng rao hàng lanh lảnh: bánh giò, bánh chưng, bánh cúc, xôi nếp than, bánh bèo, bánh ít trần, chuối xào dừa, chuối chiên, chuối nấu, cốm dẹp, chè đậu xanh bột bán, chè thưng, chè táo xọn, chè hột me, bắp nấu, me ngào, bánh tráng kẹo, bánh bò, bánh da lợn, bánh căn bà ba, ốc gạo, ốc len xào dừa, hột vịt lộn, hột gà giữa,..Tiếng thu mua zàn zụn, bạc zụn, ông lò, ve chai, quần áo cũ, tủ giường cũ, đồ sắt, đồ đồng bán hôn! Có những tiếng rao mà cho đến bây giờ các em không thể nào quên. Đó là tiếng rao của ông bán hàng kẹo kéo: ”Ông Tây mà lấy bà Đầm. Thấy hàng kẹo kéo, chạy ầm ra mua. Ông thì bảo bà mua. Bà thì bảo túa lua hết tiền”, hay“Cô kia, vừa thấp, vừa lùn. Ăn đồng kẹo kéo, nó đùn cô cao.” Có mấy em thấy mình lùn, nghe vậy tưởng thật! Ngày nào cũng xin tiền ba má mua kẹo kéo ăn, nhưng chẳng thấy cao hơn được chút nào, mà sau đó còn bị sâu răng nữa! Xóm Giếng, hay các xóm nghèo ở Sàigòn không khác nhau là bao nhiêu! Thanh thiếu niên dễ bị cám dỗ, sa đoạ bởi nhiều thói hư, tật xấu và tệ đoan xã hội. Từ đó sanh ra lêu lỏng, đàn đúm, kết bè, kết đảng và bỏ học. Rồi vào tù, ra khám. Một vài em mượn khai sanh lớn tuổi hơn. Đăng vào các binh chủng tác chiến như: Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, Biệt Kích, để chứng tỏ mình là người lớn và được một ít tiền thưởng. Có em chỉ vài tháng sau, thì đào ngũ. Tiếp tục mượn giấy tờ, đầu quân qua binh chủng khác. Lâu lâu có dịp trở về xóm cũ, tụ họp nhậu nhẹt say sưa, quậy phá tưng bừng. Thanh thiếu niên xuất thân nơi đây khó có cơ hội và điều kiện, để tiến bước trên đường học vấn. Vì cha mẹ là dân lao động, chữ nghĩa kém cỏi, không có thì giờ gần bên con cái để dạy dỗ và săn sóc. Quanh năm, suốt tháng, phải chạy toát mồ hôi, mới lo được miếng ăn, thì làm sao có thời giờ để lo cho con cái mình được cái chữ, cái nghĩa với đời. Tuy nhiên, vẫn có một số em đã vượt qua được nghịch cảnh của gia đình. Cố gắng, chăm chỉ học hành trong hoàn cảnh khó khăn. Tránh xa mọi sự lôi kéo, đưa đến hư hỏng, nên thoát khỏi sợi dây oan nghiệt, luôn luôn chực chờ cơ hội thắt vào cổ bất cứ lúc nào! Còn rất nhiều điều để viết về con hẻm này. Xin được phép dừng ở đây! Xin cầu chúc những người Xóm Giếng cũ đã đi xa. Giờ này, họ đang sống an bình nơi cõi vĩnh hằng như: ông bà Cả, ông bà Hai Miên, ông bà Ba Hoá, ông bà Tư Bụng, Ông Bà Tư Đen, Ông bà Tư Đun, ông bà Năm Quí, ông bà Sáu Báu, Ông bà Sáu Lộ, ông bà Sáu Chái, ông bà Sáu Hạnh, Ông bà Bảy Lô, Ông bà Tám Phùng, Ông bà Chín Thủng, ông bà Mười Lác, ông bà Thọ, ông bà Triển, ông bà Thi, ông bà Tỵ, ông bà Đội Phổ, ông bà Yến, ông bà Sĩ, ông bà Chung, ông Hai On, bà Hai Mập, bà Ba Thông, bà Tư bún Tàu, Bà Năm Đủ, ông Năm Tỵ, ông Bày Bò, bà Bảy Long, bà Tám Xuân, anh Tánh, anh Hồ, anh Hà, anh Lâm, anh Sơn, anh Tụ, anh Thành Ba Lù, anh Thành mập, Anh Chung, Chị Lùn, chị Viễng, Chị Nguyệt… Nhiều căn nhà trong xóm đã thay đổi qua nhiều đời chủ. Người muôn năm cũ đều rơi rụng dần theo thời gian. Những chủ nhân mới, hầu hết là những người lạ từ xa đến. Họ xin giấy phép sửa nhà. Xây cao thêm ba, bốn, năm từng lầu. Rồi tìm cách lấn ra vài thước. Bị bà con lối xóm thưa gửi, khiếu nại, thì họ tạm ngưng xây. Sau đó tìm cách thuốc thang, chạy chữa. Nếu lo không được thì phải làm trở lại đúng theo bảng vẽ. Từ đó, tình cảm bà con lối xóm, láng giềng không còn mặn nồng như thuở xa xưa. Đúng là “Bán bà con xa. Nhưng không mua đưoc láng giềng gần!” Bây giờ Xóm Giếng không còn khoảng đất trống cho trẻ em vui chơi như ngày xưa. Cây cối đã bị chặt bỏ hết. Người lớn tuổi đã theo Ông, theo Bà, theo Trời, theo Phật về bên kia thế giới. Một số khác đã giã từ con hẻm dọn đi nơi khác, hoặc đang sống tha phương nơi xứ người. Cuối cùng, Xóm Giếng chỉ còn trong nỗi nhớ khôn nguôi mà thôi! Xin gửi lời chào thân ái đến Xóm Giếng thân yêu ngày thơ ấu của tôi!
Trần Đình Phước
|
No comments:
Post a Comment
Cám ơn bạn đã ghi cảm tưởng!