Wednesday, October 21, 2015

Tân Định & Đa Kao Thân Yêu


                 Tân Định & Đa Kao Thân Yêu
            Những Con Đường Còn Giữ Tên Xưa ***

                                                                                          Trần Đình Phước

(Xin được Kính Tặng đến bà con Tân Định & Đa Kao và những ai đã từng đi qua nơi đây.)



Cho đến bây giờ, dù đã xa Tân Định và Đa Kao nhiều năm, nhưng trong tôi “Tân Định và Đa Kao” lúc nào cũng là một nỗi nhớ khôn nguôi! Chúng cứ thôi thúc tôi hoài. Đã bao năm qua, tôi muốn tìm về chốn này, để sống lại với kỷ niệm thuở học trò, mà tình yêu khi đó “chỉ biết đôi mắt nhìn nhau cũng đủ rồi.” Tôi cứ hẹn nhiều lần, nhưng vẫn chưa bao giờ thực hiện được ước mơ của mình. Rồi! một dịp tình cờ đưa đến. Giấc mơ đã trở thành hiện thực. Tôi đã có hai tuần lễ đi qua, đi lại, đi tới, đi lui. đi xuôi, đi ngược trên những con đường kỷ niệm của Tân Định và Đa Kao. Điều làm tôi rất đổi ngạc nhiên và thích thú nhất là nhiều con đường trong khu vực này vẫn không hề bị đổi tên.

Thật vậy! Sau 30 tháng 04, năm 1975. Một số tên đường của thành phố Sài Gòn thân yêu đã bị đổi bằng những cái tên xa lạ. Nay, được thấy lại các tên đường ở khu Tân Định và Đa kao không bị thay đồi nhiều, trong lòng tôi bỗng nhiên dâng lên một sự xúc động mãnh liệt và một niềm sung sướng vô biên.

Xin mời các bạn cùng tôi tìm về những con đường kỷ niệm thân yêu của Tân Định và Đa Kao với những bồi hồi, rung động khó quên của thời niên thiếu không bao giờ phôi pha, dù năm tháng trôi qua như cơn gió thổi.

Trước hết, xin bắt đầu từ Cầu Kiệu với con đường Hai Bà Trưng đi về phía Sài gòn. Khoảng đường này, bên tay phải là hẻm Vựa Gạo số 477 HBT. Nơi các ghe thuyền ngày xưa chọn làm bến tấp nập xuống gạo ở đây, để  từ đó gạo được giao lại cho các chợ. Hẻm có nhà của Hoạ Sĩ vẽ áo dài ba miền Nam,Trung, Bắc nổi tiếng Lê Trung. Ông đã từng doạt nhiều giải thưởng lớn về Hội Hoạ. Con hẻm đi ra được hẻm 60 Cù Lao Yên Đổ, phòng khám mắt của Bác Sĩ Kính, tiệm bán bông cườm cho đám tang, tiệm thuốc Bắc của ông Lang Sách. Nay là tiệm bán “Bánh Tầm Bì 370 - Đặc Sản Bạc Liêu” của con trai cua rơ nước rút Nguyễn Văn Châu thuê mở quán ăn. Cua Rơ xe đạp Nguyễn Văn Châu đã làm nên một kỳ tích vô tiền khoáng hậu, mà cho đến nay chưa từng có bất cứ cua rơ xe đạp VN nào tạo được “Trong cùng năm 1961, ông đã đoạt chức Vô Địch nước rút Á Châu ở Đông Kinh và Đông Nam Á Vận Hội ở Ngưỡng Quang.” 

Hẻm cô Hai Kim, số 451 HB. Bên phải đầu hẻm là tiệm điện Ngọc Sơn, trong hẻm có cô Hai Kim chuyên cắt lể, giác hơi, cạo gió và bán thuốc tể. Cạnh bên là nhà của Dịch Giả các truyện kiếp hiệp nổi tiếng Từ Khánh Phụng vớ các truyện: Trảm Lư Bảo Kiếm, Hoả Long Thần Kiếm, Quái Khách Muôn Mặt, Song Nữ Hiệp Hồng Y Kiếm Hiệp,…có lò làm bánh hủ tiếu và bánh cuốn tráng hơi của người Hoa chuyên đem bỏ mối trong vùng, Bà Năm Cà Lì bán vải ở chợ Tân Định.
Bên trái hẻm là tiệm sửa xe gắn máy Chín Kết sửa xe Mô Tô, nhà thuốc Nhân Phong Đường hay còn gọi là Thuốc cam Hàng Bạc số 447 B - HBT. Trước cửa trên quay kính bên trái có trưng bày một con nai bằng gỗ mun, nhìn tưởng như thật. Gia đình Nhân Phong Đường hầu hết ở nước ngoài. Hiện chỉ còn người con trai út là cựu quân nhân Binh Chủng Thiết Giáp VNCH ở lại trông coi và kế nghiệp. Trước năm 1975, ông chủ thuốc cam Hàng bạc có nhiều bộ sưu tập đồ cổ rất giá trị. Nhất là những binh khí và đồ sành sứ cổ xưa. Đặc biệt, có một con chim sáo nhỏ bằng ngọc thuộc loại quý hiếm.

Kế bên là tiệm cà phê tên Hải Nàm của người Việt gốc Hoa. Nơi đây bà con thuộc giới bình dân thường đến thưởng thức cà phê pha bằng vợt. Hai chân ngồi trên ghế theo kiểu ngồi nước lụt, miệng nhâm nhi ly cà phê xây chừng, môi bập bẹ điếu thuốc Rê Gò Vấp, Cotab, Bastos xanh đỏ…để bàn chuyện thời sự, bàn những con số đề sẽ xổ vào buổi chiều, giá cả hàng hóa lên xuống hàng ngày, chuyện chính chị, chính em, bàn về đua ngựa cuối tuần ở trường đua Phú Thọ, với các con ngựa được mang tên các nữ nghệ sĩ cải lương danh tiếng như: Út Bạch Lan, Thanh Nga, Ngọc Giàu, Bạch Tuyết.. Ngoài cà phê ra, còn có hủ tíu mì, hoành thánh,bánh bao, xíu mại. Buổi chiều có thêm xe bán tiết canh, lòng heo của bà Thìn, nhà trong hẻm 60 Yên Đổ - Cù Lao.

Phía bên trái, dưới chân Cầu Kiệu là con hẻm nhỏ số 478 HBT chuyên bán chó, kèm theo một đội quân chuyên săn bắt chó. Dụng cụ hành nghề rất đơn giản: một ống nước dài khoảng một thước rưởi, bên trong luồn một sợi dây cáp nhỏ, được thắt nút thòng lọng. Họ lùng sục khắp hang cùng, ngỏ hẹp trong thành phố, ra đến tận ngoại ô để tìm nguyên liệu chó, đem về cung cấp cho các quán Cờ Tây. Em chó nào chạy lang thang là chỉ vài giây, bằng thao tác thuần thục, các tay săn bắt chó đã đưa thòng lòng vào cổ em và ném ngay vào bao bố trong có đựng tro, để cho em bị ngộp, không sủa, không giẫy giụa, hoặc ú ớ được. Nếu em chó nào đẹp, có giá trị thì chờ vài ngày cho chủ nhân đến tìm chuộc lại theo luật giang hồ. Kế tiếp là tiệm trà Phật Tổ, cây xăng nhỏ HBT, tiệm bán đồ điện Thành Mỹ, tiệm sơn Mậu Ký và cửa hiệu bán xe đạp cùng phụ tùng Đoàn Văn Thẩm được các cua rơ xe đạp thích đến mua, hay đặt phụ tùng sản xuất từ Pháp và Ý Đại Lợi. Sau này, có thêm tiệm bán xe đạpTuấn Kiệt với bà chủ đeo kính trắng, gọng nhựa đen, miệng lúc nào cũng cười tươi như hoa nở.


Quẹo trái ở ngã ba là đường Trần Quang Khải. Đầu đường là phòng mạch của Bác Sĩ Hạnh. Trước khi đi ngoại quốc đã làm giấy tờ hợp pháp giao lại căn nhà cho người em tên Lịch. Nay, vợ chồng anh hành nghề bôm và vá ép xe giá rất bình dân. Họ làm ăn rất đàng hoàng, uy tín và có lương tâm, tiệm Bida TQK, về sau đổi thành Salon bán xe TQK. Đi thêm vài bước là con đường nhỏ tên Nguyễn Hữu Cảnh, còn gọi là đường Xóm Chùa vì trong hẻm có nhiều chùa chiền. Đầu hẻm, phía bên phải là chỗ mài dao kéo, tông đơ, rồi đến tiệm bánh cuốn Thanh Trì  vẫn còn tồn tại, có lẽ đã hơn nữa thế kỷ? Bà chủ đã mất cách đây vài năm, các con gái bà tiếp tục nối nghiệp. Nằm đối diện là Hãng Sáo Công Ty, rồi tới Trường Việt Nam Học Đường, số 38 đường Đặng Tất do Thầy Phan Hiếu Kính làm Hiệu Trưởng và Trường Trung Học Tư Thục Văn Lang, số 51 Trần Quí Khoách do Thầy Ngô Duy Cầu làm Hiệu Trưởng. Trường Văn Lang bắt đầu bằng hai dãy nhà lợp bằng tôn trên nền đất từ các ao rau muống. Sau đó Thầy Cầu cho xây dựng từ từ. Sau này, trường Văn Lang được xem như có bề thế nhất trong vùng. Thành phần giáo sư  giảng dạy rất hùng  hậu. Đa số đang là Giáo Sư của các Trường Công Lập nổi tiếng như Pétrus Ký, Chu Văn AnNăm nào, tỷ lệ học sinh trường Văn Lang cũng đều đạt thành tích rất cao trong các kỳ thi Tú Tài 1 và Tú Tái 2 do Bộ Giáo Dục tổ chức.. Thầy Cầu mất đúng vào ngày 30 tháng 04, năm 1975. Hiện nay Trường Văn Lang là trường duy nhất trong khu vực Đa Kao và Tân Định còn tồn tại và vẫn giữ tên Văn  Lang. Đối diện trường Văn Lang là Cư Xá Kiến Ốc Cục Tân Định, dành cho công chức. Đi vào phía trong là chùa Vạn Thọ và một số chùa nhỏ khác nằm rải rác. Ngoài ra có dãy phố mười căn, trong đó có gia đình ban kích động nhạc thần đồng CBC danh tiếng một thời, vì các nghệ sĩ trình diễn đều còn ở lứa tuổi nhi đồng.

Phía tay phải là quán cơm cây Điệp, kế bên là hãng sản xuất Gạch Bông Vân Sơn và tiệm Billards mang cùng tên. Nhìn sang bên đường là tiệm giặt ủi Tần Tiến, cho thuê xe xích lô đạp, làm bản kẽm Dầu, trường Trung Học Tư Thục Tân Thạnh của Thầy Phan Út. Trưóc khi đi vào cổng trường, phải đi ngang Bảo Sanh Viện Ngô Liêng. Hẻm Trường Tân Thạnh đi ra được đường Đặng Dung. Quẹo bên trái có khách sạn Đặng Dung , quẹo bên phải là nhà Thầy Hiệu Trưởng Văn Lang Ngô Duy Cầu, số 48 A Đặng Dung. Nay là phòng chữa răng Ngọc Nha và nhà của gia đình Thuốc Cam Hàng Bạc.

Đi tiếp sẽ gặp chùa Cô Hồn hay Tân Hiệp Nam Nữ Hội, số 186 TQK, cây xăng TQK, Photocopy Hoàng Sơn, xe nước mía chị Hai số 186 Bis. Cô em gái tên D…là nữ sinh Lê Văn Duyệt rất xinh xắn và duyên dáng. Nhờ thế mà xe nước mía chị Hai lúc nào cũng tấp nập khách đến thuởng thức,mà đa số là học sinh. Nhiều anh chơi nổi kêu một lúc hai, ba ly và tình nguyện rửa và dọn ly giùm. Tuy nhiên, một chàng Sĩ Quan tốt nhiệp khoá 19 Võ Bị Đà Lạt thuộc binh chủng quanh năm hành quân với bưng biền và lặn lội ở Rừng Lá Thấp đã được nàng đáp lại tình yêu. Đây là một mối tình lãng mạn và trong sáng. Nhưng định mệnh oái ăm đã không đưa đến một kết thúc tốt đẹp vì thân mẫu cô đã quyết liệt từ chối. Lý do là khác biệt về tôn giáo và nhất là không muốn cô sớm trở thành quả phụ thơ ngây ở tuổi vừa mới chớm hai mươi. Cuối cùng hai người đành phải nhắm mắt chia tay. Nghe đâu gia đình nàng đang định cư ở Canada. Còn chàng sau năm 1975 tiếp tục dùi mài kinh sử hơn mười năm ở Đại Học không có ngày tốt nghiệp. Chàng đã cùng gia đình đến Mỹ theo diện H.O và định cư ở Nam Cali. Thỉnh thoảng chàng cũng viết nhiều bài gồm đủ các đề tài và được độc giả các nơi ái mộ. Nghe đâu chàng cũng đã từng đoạt giải “Viết Về Nước Mỹ” nhiều lần.

Đường Bà Lê Chân bên tay phải, ngay góc đường là quán cơm tấm bì, chả, sườn nướng, xí mại và cà phê  pha vợt bình dân tên Ngọc Long của vợ chồng con trai nghệ sĩ lão thành Bảy Nhiêu. Kế bên có bà Sáu bán nước trà Huế và hai bàn đá banh tay lôi cuốn các học sinh kéo đến thường gây ồn ào trước khi vào học và lúc tan trường. Đôi khi sinh ra ẩu đả vì cá độ, chọc quê nhau. Cả hai bên thắng hay thua thì quần áo, mặt mày đều dính dầu nhớt lem luốc. Chắc chắn về nhà sẽ bị ăn đòn.

Nằm đối diện là Đình Phú Hoà, số 159 TQK nơi các đoàn hát bộ và cải lương thường đến tập và diễn tuồng. Diện tích Đình Phú Hoà đang dần dần bị thu nhỏ lại vì được dùng chỗ giử xe, cho thuê mặt bằng và xây cất nhà cửa bất hợp pháp. Sát bên Đình Phú Hoà là lớp Anh Ngữ của Giáo Sư Nguyễn Thế Thông.
Nằm trên đường Bà Lê Chân phía bên trái có một hẻm nhỏ với ông Sáu Hộ chuyên bó bột trị trật xương, gãy xương tay chân, tiệm Kim Thạch bán văn phòng phẩm, dụng cụ hoc sinh, nhà in Bùi Văn Tạ, bảo sanh viện Hà Đông Hà. Trước mặt có con đường mang tên Mã Lộ. Hồi xưa có bến xe thổ mộ và xe cá. Con đường này chạy song song phía sau chợ Tân Định. Đi thêm khoảng mười mét là đường Hai Bà Trưng. Nằm ngay góc Bà Lê Chân và HBT là Y Viện Tân Định. Phía bên phải có tiệm thịt bò Thành Thể và ba tiệm vàng Đình Thể, HữuThành và Mỹ Thịnh. Hai ông bà Mỹ Thịnh sản xuất hàng tá con. Tất cả đều là gái. tướng cô nào cũng đều dong dỏng cao. Nghe đâu ông bà  đi cầu tự được một đấng con trai?  Cũng nói thêm ở gần đó có nhà thuốc Đông Y Đức Nguyên số 350 HBT của Đông Y Sĩ Chánh Kỷ. Bên trái là chợ Tân Định hoạt động hầu như suốt ngày. Ban ngày là hoạt động về chợ búa. Còn về chiều và tối thì các hàng quán: Trái cây, hột vịt lộn, ốc gạo, ốc hương, ốc len xào dừa, khô mực, đu đủ bò khô, gan cháy, hủ tíu mì, sâm bổ lượng, cháo lòng, bánh cuốn…
Bà con đi ngang qua thường hay bị chèo kéo lại và lực lượng bán vé số vừa thấy khách ngồi là chạy lại mời mọc. Chưa tính đến các cái bang thường gây phiền phức cho thực khách khi vừa ăn xong, chưa rời khỏi bàn đã bị họ nhào tới thu gọn chiến trường chớp nhoáng.

Từ Đình Phú Hoà nhìn sang bên kia là đường Trần Nhật Duật. Xe chè Huỳnh Thị Ngà nằm ngay góc đường. Bà chủ là người miền Bắc di cư. Xe chè bà nổi tiếng về đậu xanh, đậu đỏ và bánh lọt nước dừa không nơi nào sánh bằng. Bà cũng bán thêm nước chanh muối, sương sáo, sương sa. Vào giờ tan học học sinh các trường kéo đến rất đông , bà bán không kịp. Đường TND chạy dài tới khu nông cơ cũ. Cuối cùng, được chấm dứt bằng một nhánh sông nhỏ chảy ngang qua. Học sinh trốn học thường đến đây tắm sông, trèo hái trứng cá, bần, bình bát, keo và mướn ghe chèo ra đến Long Vân Tự và cầu Phan Thanh Giản - Xa Lộ Sàigòn & Biên Hoà.

Trên đường Trần Nhật Duật có bốn con đường nhỏ mang tên các nhân vật lích sử đi ngang qua. Thứ tự như sau: Đặng Dung, Đặng Tất, Trần Quí Khoách và Trần Khánh Dư. Riêng, hai đường Đặng Dung và Trần Khánh Dư chạy dài đến đường Trần Khắc Chân, còn gọi là xóm Cầu Mới, đi ra được đường Chi Lăng - Gia Định. Trên đường Trần Nhật Duật, hẻm số 21 có tiệm chụp hình Nguyễn Kỳ nổi tiếng. Một thời được các nữ sinh kéo đến rất đông. Họ thường đến đây chụp hình kỷ niệm, chân dung để dán trong lưu bút ngày xanh. Chủ nhân có biệt tài tô điểm, thêm thắt làm cho hình đẹp sắc sảo và giá trị hơn.

Nhà số 10 là Trường Trung Tỉểu Học Tư Thục Huỳnh Thị Ngà do Bà Huỳnh Thị Ngà làm chủ, kiêm Hiệu Trưởng. Trường thành lập từ năm 1947, ban đầu chỉ là những lớp bậc ở Tiểu học ở căn nhà trệt. Dần dần xây lên nhiều tầng và phát triển thêm Trung Học Đệ Nhất Cấp và Đệ Nhị Cấp. Bà là một phụ nữ giỏi, đảm lược. Thời nào Bà cũng giao thiệp rộng trong các giới chức đương quyền và các Phong Trào Phụ Nữ. Bà biết chèo chống, điều hành và giữ vững ngôi trường Huỳnh Thị Ngà, mà chung quanh có nhiều trường trung học tư thục khác như: Văn Lang, Việt Nam Học Đường, Văn Hiến, Huỳnh Khương Ninh, Vương Gia Cần, Tân Thạnh, Les Lauriers, Nguyễn Công Trứ, Đông Tây Học Đường... Các Hiệu Trưởng đều là nam giới. Họ đã dùng mọi cách để cạnh tranh với trường bà, nhưng không ảnh hưởng được gì hết! Đặc biệt, Trường HTN còn là trường duy nhất ở Sàigòn có nhận nữ sinh Nội Trú. Phụ huynh rất an tâm khi gửi con vào đây học nội trú. Bà dạy dỗ, chăm sóc, theo dõi thường xuyên và áp dụng kỹ luật thật nghiêm khắc với các em.Trường lúc nào cũng đông học sinh, thi cử luôn luôn đạt thành tích tốt. Bà khuyến khích học sinh tham gia các chương trình văn nghệ, các công tác phục vụ cộng đồng, cứu trợ các nạn nhân bị thiên tai và thăm viếng thương bệnh binh đang được điều trị ở các Quân Y Vện. Những học sinh góp mặt thường được bà nâng đỡ cho miễn hay giảm một phần học phí. Nữ minh tinh điện ảnh nổi tiếng Thẩm Thúy Hằng, Ca sĩ Trang Mỹ Dung, Thảo Ly, Phương Đại,Thần đồng Phương Mai, Vũ Bộ Song Kim…đều từng là học sinh trường HTN.

Ngoài ra, Bà còn dành một phòng rộng nhất cho Giáo Sư dạy Pháp Văn Trần Văn Chánh thuê mở Cour Particulier ở tầng trệt. Giáo Sư Chánh là thân phụ của Bộ Trưởng Y Tế  VNCH là Trần Lữ Y (Louis.) Lúc đầu Thầy mở  các lớp luyện thi Tú Tài 1&2 Pháp tại tư gia gần trường Huỳnh Khương Ninh, trước nhà có cây mít ướt đã già, múi nhỏ, nhưng ngọt và thơm. Sau này học sinh các trường theo chương trình Pháp như: Marie Curie, Jean-Jacques Rousseau, Couvent des Oiseaux, Pasteur, Taberd... đến ghi tên học rất đông, nên Thầy phải chuyển sang trường Huỳnh Thị Ngà mới có thể chứa đủ.

Trường hoạt động cho đến ngày 30/04/1975. Tính ra tồn tại gần ba mươi năm. Bà HTN mất cuối năm 1992 tại tiễu bang Virginia (Hoa Kỳ.) Lúc còn sinh thời, Bà có ước mơ lấy lại ngôi trường thân yêu, mà Bà đã bỏ ra bao nhiêu công sức tạo dựng. Nhưng ước mơ của Bà đã không bao giờ trở thành hiện thực .

Đối diện trưòng Huỳnh Thị Ngà, góc đường Đặng Dung là nhà gíáo sư khiêu vũ Nguyễn Trọng ở trên lầu một, phía trưóc có cây me to. Học sinh các trường chung quanh thường leo lên hái, Những trái me được túm gọn lại trong áo sơ mi. Khi vừa trèo xuống, thỉnh thoảng bị các anh hùng du đảng xóm chợ Tân Định tịch thu hết chiến lợi phẩm. Lúc đó chỉ biết mếu máo, năn nỉ xin lại vài trái ăn cho đỡ ghiền. Cách đó vài căn là nhà Giáo Sư Huỳnh Văn Mĩ (i ngắn.)Thầy Mĩ nổi tiếng về dạy Pháp Văn, nhất là phương pháp phân tích các mệnh đề rất dễ hiểu. Thầy cũng là một trong những Võ Sư có công sáng lập môn phái Hàn Bái Đường. Không ai nghe nhắc về vợ thầy, sau khi hết giờ dạy học chỉ thấy Thầy đi chợ một mình, tay xách cái gà mên. Thầy có con trai tên H..đẹp trai, giỏi võ và tốt nghiệp Bác Sĩ Quân Y.. Thầy Mĩ mất ở Nam Cali năm 2004, hưởng thọ 93 tuổi. Học sinh trường Huỳnh Thị Ngà rất nễ sợ thầy. Trong giờ Thầy dạy, không em nào, cho dù bặm trợn đến đâu cũng không  dám hó hé, quậy phá hay lơ là vì thầy rất nghiêm và khó. Em nào vô kỹ luật. Thầy sẵn sàng có biện pháp thích đáng ngay lập tức. Bà Huỳnh Thị Ngà là học trò hồi nhỏ của Thầy. Phải kể thêm ở đây xe kem của một người miền Bắc di cư có cô con gái tên Mai và xe bò viên của ông Tàu có đổ xí ngầu ăn bò viên. Thường thường là ông thắng. Trường hợp ông thua thì bò viên ông múc chung cho người thắng nhỏ hơn là loại bán bình thường cho khách.

Bây giờ trở ngược ra đường Trần Quang Khải đi về phía Đa Kao. Trước khi đến một ngã năm. Phía bên trái là phòng nha khoa trang bị máy móc hiện đại của vợ chồng đều là Nha Sĩ. Vợ là Nha Sĩ tên Hạnh. Dáng người mảnh mai, trang nhã. Bệnh nhân đang đau răng được bà chữa trị, tự nhiên cảm thấy không đau. Bà có nụ cười đẹp, hiền từ, hai hàm răng trắng đều. Gia đình tôi là khách hàng quen thuộc của bà. Chồng là Không Quân Thiếu Tá Nha Sĩ Dương Quảng Định đã từng tu nghiệp ở Hoa Kỳ (phục vụ tại Trung Tâm Giám Định Y Khoa Không Quân.) Hai vợ chồng rất đẹp đôi. Đi thêm khoảng ba mươi thước gặp một Villa cổ, phía trước có Depot rác nhỏ. Các công nhân quét rác sau khi gom rác xong đem đến đây đổ.

Bên kia đuờng là chỗ cho thuê sách, tiểu thuyết và truyện kiếm hiệp Đức Hưng, kế bên là tiệm hàn gió đá Sáu An, tiệm hớt tóc Hải Vân. Cách đó vài căn là nơi chuyên sản xuất xích lô đạp và xe ba bánh có tên Ngọc Quế.

Khi đến ngã năm, bên tay trái là đường Trần Khắc Chân, nhìn về phia tay phải là đường Nguyễn Phi Khanh và Trần Văn Thạch (nay là Nguyễn Hữu Cầu.) Có nhà may Tụ Bảo, tiệm buôn Thế Giới, vựa trái cây, lò bánh mì, nhà Bác Sĩ Trần Văn Văn, Cinéma Modern, nhà sách Yểm Yểm Thư Quán.
Đối diện là xóm Cảnh Sát, vì đa số những gia đình ở đây đều phục vụ trong ngành Cảnh Sát và nhà Quái Kiệt Tùng Lâm. Hẻm này đi ra được đường Đinh Công Tráng. Căn nhà nằm ngay góc Nguyễn Phi Khanh và Trần Văn Thạch của ông  bà  Bùi Ngọc Phương. Ông tự phong cho mình là vua dầu hoả Việt Nam và dự định ứng cử Tổng Thống VNCH. Sau năm 1975 ông mất ở trong tù.

Nếu đi ngược chiều trên đường Nguyễn Phi Khanh, ngã ba đầu tiên là đường Huyền Quang có Sơn Trà Đình - Tín Nghĩa Hội, số 113 A Nguyễn Phi Khanh nằm ngay góc. Mỗi năm vào dịp Lễ Vu Lan có trình diễn Hát Bộ. Khán giả đi xem thường ném các quạt giấy có kẹp tiền lên sân khấu, để tưởng thưởng khi đến đoạn nào gây cấn, hấp dẫn. Lúc đó chiên trống thi nhau gõ, đánh liên hồi. Tiếng la hét cổ vũ ầm ỉ.

Đường Huyền Quang mang tên một vị Sư. Con đường dài khoảng hai mươi thước, đi hết đường Huyền Quang gặp đường Lý Trần Quán, quẹo trái là trường Mẫu Giáo Mạnh Mẫu. Nơi đây có nữ Nghị Viên Thành Phố nổi danh TKT, mà một dạo báo chí Sàigòn hết lời ca tụng bà có biệt tài “vừa đánh răng, vừa huýt sáo.” Kế bên là Chả Cá Lã Vọng. Cuối đường sẽ gặp đường Hiền Vương và bên hông nghĩa Trang Mạc Đỉnh Chi. Quẹo trái là Sở Vệ Sinh Thành Phố.

Ngã ba kế tiếp của đường Nguyễn Phi Khanh là Lý Văn Phức, có một Dépot rác rất lớn. Các công nhân vệ sinh đưa rác về đây tập trung, trước khi các xe lớn đến chở đi tái chế và phế thải. Cuối đường là quán cà phê bà Chi, mà các bài viết về cà phê Sàigòn cũ luôn luôn phải nhắc đến. Bây giờ con cháu bà vẫn tiếp tục, nhưng khách không còn đông. Buổi trưa phải bán thêm cơm phần giao đến các văn phòng. Quẹo trái gặp rạp hát Casino Đa Kao (nay là Rạp Cầu Bông) , tiệm thạch chè Hiển Khánh, nhà may Cao Minh, tiệm bánh Bảo Hiên Rồng Vàng, tiệm kem Mỹ Hương là nhà của nhạc sĩ Tây Ban Cầm Đan Phú. Ông thường chơi cho các Đài Phát Thanh và các chương trình Đại Nhạc Hội hàng tuần do Đài Phát Thanh Sài Gòn tổ chức thi tuyển lựa ca sĩ ở Rạp Quốc Thanh và Hưng Đạo. Khi ông đệm đàn, ông rất khó với ca sĩ hát không đúng nhạc hay không thuộc bài bản. Tuy nhiên, khi đệm cho nữ ca sĩ Liêu Trai Thanh Thúy hát. Dù ca sĩ Thanh Thúy hát cách nào, đôi khi chỏi, hay rớt nhịp. Ông cũng vui vẻ đệm theo, mà không một chút bực dọc hay phàn nàn. Kế bên là tiệm Thịt Bò Đức Phú. Đối diện bên đường là nhà hàng Pháp tên Casino, tiệm bán quân trang, huy chương và huy hiệu quân đội Quế Anh. Nếu quẹo phải sẽ gặp tiệm hớt tóc Đơ, chuyên hớt tóc theo lối tài tử ngoại quốc, rồi đến Đền Thờ Đức Trần Hưng Đạo số 36 Hiền Vương (nay là Võ Thị Sáu.)Ngỏ vào trong đền phía bên trái bán nhang đèn cho khách thập phương đến cầu khẩn, có bà thầy bói mù chuyên gieo quẻ bói bằng hai đồng xu. Gieo quẻ cho bất cứ ai, khi hai đồng xu vừa rơi xuống chiếu, bà cũng đều nói với thân chủ là sắp nhận được tin vui ở xa và dặn thân chủ nên cẩn thận về đi đứng, xe cộ, kẻo bị tai nạn, nhưng đã đên đây cầu khấn thì được Đức Thánh Trần che chở, nên đều tai qua, nạn khỏi!


Đoạn đường Trần Quang Khải từ đây ra đến đường Đinh Tiên Hoàng, tuy không dài lắm, nhưng có rất nhiều cửa hiệu buôn bán. Phía bên phải là Pharmacy Duyệt, cũng là tên của Dược Sĩ Duyệt, nghe đồn gia đình ông gặp nạn lúc di tản ngày 30/04/1975? rồi đến bảo sanh viện Chung Nam Quế. Nơi các bà bầu khu Đakao và Gia Định thường đến khai hoa nở nhụy. Nhà kế bên trước sân có một hồ nuôi cá tai tuợng rất lớn và hon non bộ. Một phụ nữ rất mập ngồi trước nhà, lúc nào trên tay cũng cầm cây quạt bằng lông gà phe phẩy. Bà hành nghề coi bói bài Tây, thân chủ cũng đông. Tiếp theo có hai tiệm bán phụ tùng và sửa xe Honda, rồi cà phê Ngọc Dung số 77 Trần Quang Khải, của hai chị em tên Ngọc và tên Dung.

Đi thêm một chút nữa sẽ gặp Đình Nam Chơn, số 29 TQK. Trước đình có thờ hình ông Cọp rất oai vệ. Bên trái cổng, nằm trong sân đình có cây Đa to, rễ đan với nhau chằng chịt. Có lẽ nó được trồng đã hơn trăm năm? Hiện nay Đình Nam Chơn được xếp là “Di tích Kiến Trúc Nghệ Thuật” cần phải bảo tồn. Thêm vài bước nữa có một Phật Đường nhỏ của người Hoa, phía trước có hai cây Mai Tứ Quý đã già, hoa nở quanh năm. Phật Đường thuộc Giáo Hội Phật Đường Nam Tông có tên là Minh Sư Đạo Quang Nam Phật Đường. Nghe đâu Phật Đường này sẽ  được xây dựng lại thành nhiều tầng. Mọi chi phí, tốn kém đều do các Hoa Kiều ở nước ngoài gửi tiền về giúp. Hiện đã lên kế hoạch và đang xin phép chính quyền duyệt.

Kế bên là tiệm vàng Bảo Thành. Ngoài việc bán vàng bạc, nữ trang, cũng còn nổi tiếng về làm bánh Trung Thu, giò lụa, giò thủ và các loại bánh mứt. Trưóc 1975, bà Bảo Thành là chủ thầu các bãi giử xe hai bánh lớn nhất Sàigòn như: Trường Đại học Luât khoa ở đường Duy Tân, Nha Xổ Số Kiến Thiết ở đại lộ Thống Nhất, Rạp Hát Đại Nam trên đường Trần Hưng Đạo, và dọc theo hai bên đường Lê Lợi. Cách một căn là tiệm ăn Tàu có tên Dân Thiên, với các món mì xào dòn, áp chảo, cơm thố và cơm chiên Dương Châu tuyệt vời.

Tiếp tục phía bên trái. Đầu tiên là chi cuộc cảnh sát Tân Định. Kế bên là Đình Nghĩa Hoà được xây dựng vào năm 1917. Bà con thường gọi là Đình Công Thành Ban. Nơi đây chuyên trình diễn hát bộ. Trước đình có thờ một ông Cọp. Hẻm Đình Nghĩa Hoà đi thông ra được đường Trần Khắc Chân. Tiếp theo sẽ đến một dãy phố, có tiệm Ronéo Lửa Hồng quay ronéo, đánh máy và photocopy bài vở, tài liệu cho các học sinh và thầy cô giáo. Tiệm nhộn nhịp nhất vào mùa thi cử. Ngoài ra cũng còn bán những bản nhạc quay ronéo sẵn, giá rất bình dân. Cách đó vài căn là một tiệm bán hòm, tiệm may Của, rồi đến nhà bà con với ông chủ rạp hát Văn Hoa.

Nổi tiếng ở đoạn đường này là tiệm cầm đồ bình dân Kim Ngân. Bà chủ lúc nào cũng trang điểm lộng lẫy như các cô đào cải lương Thanh Nga, Bạch Tuyết sắp lên sân khấu. Chung quanh cũng có nhiều tiệm cầm đồ, nhưng Kim Ngân thường đông khách hơn vì tiệm cầm mọi mặt hàng giá cao hơn các nơi, cho chuộc với phân lời tương đối thấp và thủ tục đòi hỏi không phức tạp so các nơi khác.

Đi thêm khoảng hai mươi mét nữa là một con hẻm lớn, có thể nói là nổi tiếng nhất vùng Tân Định - Đa Kao. Đó là hẻm Vạn Chài. Đây là địa điểm quy tụ anh hùng hào kiệt tứ xứ về hùng cứ. Mỗi lần chính quyền mở các cuộc hành quân cảnh sát để bắt thanh niên trốn quân dịch hay cư trú bất hợp pháp thì xe cộ, súng ống rầm rộ, ca nô, thuyền nhỏ chạy dài dọc theo sông cầu Bông, đèn pin chiếu pha sáng cả một vùng. Cuối cùng, kết quả chẳng được gì hết! Vì thanh niên trốn quân dịch đã nhảy xuống sông, lặn qua bên phía Gia định, hoặc trốn trong các con hẻm sâu, tối tăm, quanh co khó đi vào. Lực lượng kiểm soát đành bó tay và chào thua.! Đặc biệt, trong hẻm có một trường trung tiểu học tư thục mang tên Văn Hiến do Thầy Phan Ngô làm Hiệu Trưởng. Thầy cũng từng ra ứng cử và đắc cử Nghị Viên thành phố Sài gòn.

Ra khỏi hẻm, quẹo trái là gặp ngay rạp hát Văn Hoa. Rạp này đã từng một thời là nơi hẹn hò của những mối tình học trò thường buồn vu vơ, ăn chưa no lo chưa tới. Nơi của những học sinh cúp cua vào những giờ học, mà các cô cậu cho là nhàm chán. Nhất là học sinh các lớp Đệ Tam thường trốn học nhiều vì là lớp không thi, lớp dưỡng sức để chuẩn bị sang năm chiến đấu với thi cử. Lơ tơ mơ là đơ dèm cùi bắp hay đeo cánh gà chiên bơ lủng lẳng trên vai.

Rạp Văn Hoa là một trong những rạp hát quen thuộc, thanh lịch và sang trọng so với các rạp khác trong vùng, vì có trang bị máy lạnh, màn ảnh rộng và giá vé vào cửa cũng tương đối bình dân. Rạp chiếu đủ các loại phim. Những lúc có phim mới và hấp dẫn, bà con sắp hàng rồng rắn, kéo dài tới tận trước ngỏ xóm Vạn Chài. Khán giả nào không muốn sắp hàng, không muốn chen lấn đổ mồ hôi, dễ bị rách quần, rách áo hoặc bị rạch bóp, thì có thể mua vé chợ đen. Đôi khi phải trả gấp đôi, gấp ba lần.

Cũng nên nói thêm ở đây. Kế bên rạp hát là một quán cà phê cũng mang tên Văn Hoa, đã đi vào lịch sử của cà phê Saigon. Quán có giàn âm thanh nổi tối tân, nhạc ngoại quốc chọn lọc, hấp dẫn, luôn luôn đổi mới, chỗ ngồi thanh lịch, vị trí thuận lợi và do hai chị em ruột là bà con với vợ của ông chủ rạp Văn Hoa đứng bán.

Cô chị có tên TBD và cô em có tên TBH. Hai chị em đều là nữ sinh trường trung học Huỳnh Thị Ngà. Lúc nào đi học, cả hai cô đều mặc đồ đầm rất xinh xắn. Trông giống búp bê không tình yêu. Nghe đâu cũng có nhiều anh trồng cây si đến uống cà phê thường xuyên mỗi ngày, trong số đó có anh là ca sĩ một ban kích động nhạc nổi tiếng về bài hát Sunday Morning. Ngày nào anh ta cũng đến quán ngồi đồng, vừa thuởng thức cà phê, vừa trồng cây si cô em TBH. Cuối cùng chẳng nên cơm cháo gì! Gia đình Cô TBD hiện ở Montréal, còn gia đình cô TBH từ Montréal chuyển về Pleasanton (California.)vì chồng cô là Kỹ Sư được một hãng điện tử lớn ở Bắc Cali tuyển dụng.

Sau 1975, rạp Hát Văn Hoa vẫn còn hoạt động và coi như đã bị xoá sổ hoàn toàn vào ngày 14 tháng 03, năm 2011. Lúc đầu một công ty mua lại dự định xây một chung cư mười lăm tầng với nhà ở và các cửa hàng ăn uống, cùng các phuơng tiện giải trí khác. Nhưng chính quyền chỉ cho phép xây năm tầng. Do đó công ty tạm ngưng để chờ xin giấy phép xây dựng lại. Trước sau gì cũng sẽ đuợc chấp thuận. Chuyện này chỉ còn là vấn đề thời gian mà thôi! Hiện nay, tạm thời ban ngày nơi đây là chỗ rửa xe và mở quán nhậu.  Ban đêm làm chỗ giữ xe hơi.

Đoạn đường còn lại, phải nhắc đến một quán cơm Xã Hội, chuyên phục vụ cho giới lao động, công tư chức với đồng lương thấp và học sinh, sinh viên nghèo. Giá rất bình dân, chỉ năm đồng. Thực đơn gồm ba món thay đổi thường xuyên. Cơm ăn thoải mái, ăn cho đến khi nào no bụng thì thôi! Ngoài ra, còn đưọc tặng thêm một trái chuối tráng miệng và ly trà thơm, nóng bốc khói.    
     
Sau đó phải kể thêm hai tiệm bán xi măng, gạch, cát và đá rất lâu đời là Tấn Phát và Tâm Long, tên của vợ và chồng được ghép lại. Tiệm bán vật liệu xây dựng Tâm Long số 8 TQK và tiệm vàng Bảo Thành số 9 TQK. Hai tiệm nằm đối diện nhau. Hai bên gia đình coi nhau rất thân tình và đều đông con. Lúc nào cũng có ý muốn làm thông gia với nhau. Nhưng rất tiếc các dâu và rể của cả hai nhà đều là những người ở nơi khác. “Đúng là duyên số do Trời sắp đặt.” Dù có muốn làm mai mối bằng mọi cách, cũng không thể nào được!

Một chút nữa thì bỏ quên tiệm may áo dài tương đối nổi tiếng là Phương Luân, hiệu ảnh Ngọc Chương, cà phê Cây Trúc nằm ở kế bên. Đi hết đường Trần Quang Khải sẽ gặp đường Đinh Tiên Hoàng. Trước đó gặp một cái đình nhỏ tên là Phú Hoà Vạn s 6 TQK, mà hồi xưa Thầy Vũ Hữu Tiềm thuê để mớ lớp Luyện Thi Đệ Thất vào các trường Công Lập. Nay, Đình Phú Hoà Vạn coi như  bị xoá sổ vì một gia đình chiếm cứ từ trước đã cố tình làm mất đi các di tích của đình. Hiện chính quyền địa phương đang tìm mọi cách lấy lại để làm chuyện công ích.

Quẹo trái đi ra cầu Bông, sẽ găp một quán bán thịt gà, vịt và heo quay Thanh Xuân rất đông khách. Cạnh đó là một tiệm chuyên sửa xe Vespa và Lambretta. Nhìn sang bên kia đường là tiệm giầy Đông Hưng và nhà may áo dài Thanh Châu. Tiệm mang tên người con gái lớn nhất. Nhà may Thanh Châu khá nồi tiếng, chuyên may áo dài cho các ca sĩ và áo cưới cô dâu. Hiện nay tiệm may Thanh Châu vẫn tồn tại và có rất nhiều khách đến đặt may mỗi ngày. 

Bên kia đưòng Trần Quang Khải là đường Nguyễn Huy Tự. Phía tay phải có chợ Đa Kao. Trước khi tới chợ Đa Kao, sẽ gặp một gánh chè chỉ duy nhất bán đậu đen. Bà bán chè có tướng trông phúc hậu. Bà chỉ bán vào buổi chiều. Chè đậu đen bà nấu, hạt rất dẻo, hương vị ngọt đậm đà. Thú vị nhất là “ngồi chồm hỗm” ăn chè nóng dưới cơn mưa lất phất của Sài gòn, vì không có ghế cho khách.

Một con đường chạy ngang chợ Đa Kao là đường Trương Hán Siêu. Bên trong có đền thờ nhà cách mạng Tây Hồ Phan Chu Trinh và quán bánh cuốn tráng hơi mang tên Tây Hồ. Bà chủ bánh cuốn tên là bà Cà. Bà khởi nghiệp năm 1960, bằng một cái quán xập xệ, một ít bàn ghế thấp lè tè và mấy tấm bạt cũ để che nắng mưa. Bà mất vào năm 2005. Nay, các con bà phát triển thành ba nơi bán bánh cuốn cùng mang tên Tây Hồ: hai tiệm trên đường Đinh Tiên Hoàng và Huỳnh Khương Ninh và một trên đường Đinh Bộ Lĩnh - Bình Thạnh. Phía trong chợ Đa Kao, nằm bên dãy chợ cá bên tay phải còn có Đình Hoà Mỹ, số 7 THS.

Đối diện chợ Đa Kao là Tín Nghĩa Ngân Hàng. Khi chiều đến, ngân hàng đóng cửa thì xuất hiện một gánh cháo lòng, mà bà chủ rất khó tánh. Bà luôn luôn ưu tiên bán trước cho nam gìới, còn nữ gìới thì bà thường bắt phải đợi. Nếu thắc mắc, khiếu nại thì bà im lặng, không trả lời. Có nghĩa là bà không muốn bán. Các nữ thực khách đành phải đi nơi khác mà trong bụng rất ấm ức vì bị bà đối xử phân biệt...

Đường Nguyễn Huy Tự rất ngắn, khoảng chừng ba mươi thước. Chấm dứt khi đụng đường Nguyễn Văn Giai. Chạy thẳng là đường Phạm Đăng Hưng (nay là Mai Thị Lựu.) Đi hết đường quẹo trái là Đài Phát Thanh Sàigòn. Thêm vài bước sẽ gặp đuờng Nguyễn Bỉnh Khiêm.Trên đường PĐH có Viện Nhu Đạo Quang Trung của Thượng Toạ Thích Tâm Giác. Nguyên Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo. Đối diện với Viện Nhu Đạo Quang Trung là một ngôi chùa lâu đời của người Hoa, mang tên Phước Hải Tự hay còn gọi là Chùa Ngọc Hoàng, số 73 PĐH. Đặc biệt, trong chùa có nhiều cây cổ thụ lâu đời, một cái hồ lớn thả rất nhiều rùa, có những con sống đã vài chục năm trở lên. Mỗi khi các bó rau được thả xuống hồ cho chúng ăn thì cả hồ náo động, nước bắn lên tung toé, vì các chú rùa giành ăn tạo nên.

Đường Nguyễn Huy Tự, quẹo trái là đường Bùi Hữu Nghĩa. Có một cây cầu sắt cũ. Đi về phía chợ Bà Chiểu (Gia Định.) Nếu quẹo phải sẽ găp đường Nguyễn Văn Giai. Đi hết đường Nguyễn Văn Giai sẽ gặp đường Đinh Tiên Hoàng. Nhìn sang phía bên kia đường là đường Huỳnh Khương Ninh. Bên trái là rạp hát Asam, nay đã xây thành chung cư và tiệm thuốc tây Lịch Cường. Pharmacy mang tên của Dược Sĩ Tống Lịch Cường. Đầu đường Huỳnh Khương Ninh, có xe bánh mì Bảy Quan với bánh mì thịt, dăm bông và ba tê rất độc đáo. Hiện nay đầu đường HKN là hai tiệm bánh cuốn mang tên Tây Hồ do con gái bà Cà chiếm ngự. Trên con đường này có trường trung học Huỳnh Khương Ninh. Đi hết đường Huỳnh Khương Ninh sẽ gặp đường Phan Liêm. Đường chạy dọc theo bên hông Nghĩa Trang Mạc Đĩnh Chi. 

Trên đường Đinh Tiên Hoàng giữa khoảng đường Phan Đình Phùng và Phan Thanh Giản có đường Tự Đức (nay là Nguyễn Văn Thủ), trường tiểu học Đa Kao, mì Cây Nhãn, thêm hai nhà hàng Pháp nổi tiếng là Chez Albert và La Cigale. Ngoài ra, cũng phải kể thêm hai quán cà phê đã đi vào gia phà Cà Phê Saigon trước năm 1975. Quán thứ nhất là cà phê Hân mà tất cả mọi thứ đếu làm bằng Inox từ  phin, muỗng, tách đựng đường, đựng sữa. Quán thứ hai là cà phê Duyên Anh. Quán mang tên nhà văn Duyên Anh, nhưng hoàn toàn không dính dáng đến nhà văn này. Cô bé ngồi tính tiền tên Q. có nụ cười xinh xinh, đôi mắt tròn, đen láy và tóc dài thắt bím rất dễ thương. Cô làm cho bao nhiêu đấng anh hùng mê mệt. Cô cũng còn là đề tài cho các chàng thi sĩ tài tử đến vừa thưởng thức cà phê, vừa làm thơ sầu mộng. Nhưng chẳng anh nào lọt được vào đôi mắt nai tơ của nàng! Bây giờ Cà phê Hân và Duyên Anh là hai nhà hàng bán thức ăn hải sản.


Khu Đa Kao có thể kể thêm những con đường tên không thay đổi:
- Đường Nguyễn Bĩnh Khiêm có Nha Tổng Giám Đốc Trung Tiểu Học và Bình Dân Giáo Dục, hai trường Trung Học Công Lập Trưng Vương, Võ Trường Toàn, hồ bơi Nguyễn Bĩnh Khiêm, Đình Tân An, các Sở và Nha An Ninh Quân Đội.
- Đưòng Phan Kế Bính có quán cà phê Văn Nghệ Cây Tre, Hội Văn Hoá Bình Dân do ông Huỳnh Văn Lang Tổng Giám Đốc Viện Hối Đoái làm Chủ Tịch.
- Đường Mạc Đĩnh Chi với Bi Da và nhà hàng Trường Cang, Hội Việt Mỹ và Ty Cảnh sát Quận Nhất.
- Các đường Trần Cao Vân, Phan Tôn, Phan Ngữ, Trần Doãn Khanh, Cây Điệp, Nguyễn Thành Ý, Hoà Mỹ.

Gần ngã tư  Đinh Tiên Hoàng, Nguyễn Phi Khanh và Hiền Vương vẫn còn cây Đa cổ thụ rất to đứng sừng sng, năm sáu người ôm không xuể. Bên kia đường là tiệm chuyên làm con dấu, bảng tên, thêu cờ, bán các huy hiệu và tài liệu Hướng Đạo Việt Nam tên Phúc, số 180 ĐTH. Ông Phúc được thân nhân bảo lãnh đi Mỹ. Qua ở được một thời gian, ông  cảm thấy không hợp, nên quay về VN lại, để ngày ngày tiếp tục công việc từ trước gắn liền với cuộc đời ông.

Phải kể thêm một con đường tương đối đẹp và thơ mộng là đường Phùng Khắc Khoan với tư gia Đại Sứ Hoa Kỳ. Hai bên đường trồng toàn những cây me. Khi có gió nhẹ và nắng vàng. Những chiếc lá me rơi rơi, trông dễ thương và thơ mộng vô cùng!

Cuối cùng trở về khu Tân Định. Xin chỉ ghi ra những con đường không bị đổi tên: - Nguyễn Văn Mai nối hai đầu đường Hai Bà Trưng và đường Huỳnh Tinh Của có trường tiểu học con trai Tân Định, nhà thuốc Đỗ Phong Thuần và xóm Hầm Sỏi danh tiếng về du đảng trong vùng.
-Đường Đinh Công Tráng, với món bánh xèo vang danh, trường (Tân Thịnh, Les Lauries,Văn Minh) và tiệm chụp hình Duy Hy, số 76 ĐCT, chuyên chụp hình cho học sinh các trường tiểu học công lập để làm kỷ yếu mỗi năm.

-Ngay góc Hai Bà Trưng và Đinh Công Tráng là tiệm thuốc Kính Tiên, số 274 HBT. Nếu quẹo phải có Luyến Photo và lò dạy nhạc của ba nhạc sĩ Lê Dinh, Minh Kỳ và Anh Bằng. Được ghép lại là Lê Minh Bằng. Nhạc sĩ Lê Dinh hiện ở Canada, nhạc sĩ Anh Bằng đang ở Hoa Kỳ, còn nhạc sĩ Minh Kỳ đã mất tại Suối Máu - Biên Hoà vào Tháng Tám, năm 1975. Nếu quẹo trái thì gặp tiệm giầy Trinh Shoes, hai tiệm bán hòm Vạn Thọ và Tobia, hẻm Bưu Điện đi ra được đường Hiền Vương.  Quẹo bên phải gặp trường dạy lái xe hơi Mayer của ông nghị Còi Ô Tô Giáp Văn Thập, nhà của nữ nghệ sĩ Mỹ Trinh số 110. Cô Mỹ Trinh chưa bao giờ mở quán ăn hay là diễn viên hài khi còn ở VN, và cơm tấm Hiền Vương số 114 HV. Quẹo trái gặp trường Mẫu Giáo Michelet và đường Lý Trần Quán.

Gần đó có tiệm chuyên làm cửa sắt, máng xối… của gia đình hai anh em cua rơ Trần Gia Thu và Trần Gia Châu danh tiếng một thời trong làng đua xe đạp VNCH. Đối diện bên kia đường là cà phê Thu Hương cũng có tiếng tăm ở Sàigòn trong lịch sử cà phê Sài gòn, mà ông chủ không muốn ai đổ nước sôi vào phin cà phê, ngoài ông ra, nhà thờ Tân Định số 289 HBT và trường Thiên Phước số 295 HBT. Bên trong nhà thờ Tân Định có một cổng sắt thường đóng, chỉ để hở đủ cho một người len qua. Khi nào có lễ lớn thì cửa mới mở lớn ra. Đi qua cổng này sẽ gặp trường La San Đức Minh, cũng như đường Hiền Vương, đường Pasteur và đường Huỳnh Tịnh Của.

Đầu đường Hai Bà Trưng và Hiền Vương là Tín Nghĩa Ngân Hàng và nhà may Paris Mode. Đối diện là quán Bar Châu Thới. Trên đoạn đường Hiền Vương này có ngỏ hẻm Trần Tấn Phát đi ra được đường Duy Tân, Phan Thanh Giản và Hai Bà Trưng, hai cây xăng và rửa xe. Phía tay phải có tiêm giò chả Phú Hương và hai tiệm phở gà nổi tiếng là Hiền Vương, Chí Thành. Nhiều thực khách là các giới chức trong chính quyền Sàigòn thường đến đây thưởng thức. Hai chủ tiệm phở đều là người cùng quê ở miền bắc.

Ngoài ra, cũng xin kể thêm đường Pasteur. Con đường đi ra được Huỳnh Tịnh Của, Hai Bà Trưng, Hiền Vương. Nơi đây có nhiều tiệm phở, quán cà phê Hồng của hai chị em, nhà may áo dài Thiết Lập và Viện Pasteur, chiềm một chu vi rất rộng, có bốn con đường bao quanh, với những cây cổ thụ to đến nỗi năm, sáu người ôm vẫn không xuễ.

 Ngay ngã ba Nguyễn Đinh Chiểu (nay là Trần Quốc Thảo) và Pasteur, có một cái mả đá rất lớn được xây bằng đá ong đã bị giải toả. Nằm cuối bên kia đường là một trong những trường dạy Anh Văn đầu tiên của Sàigòn tên Khải Minh. Quẹo trái ra đường Công Lý, có hảng xe đò tên Cosara của ông Phạm Hoè. Quẹo phải ra chợ Tân Định và Y Viện Tân Định. đi ngang nhà ông Thượng là ông bâu ban kích động nhạc mà các nhạc sĩ đều là các con ông, xóm đạo Pasteur, tiệm hớt tóc Hoàng Lâm và nhà ông chủ Sơn Mài Thành Lễ.

Đầu đường  Huỳnh Tịnh Của có cây Phượng Vỹ rất to mà bố,năm người ôm không thề hết. Cây cho hoa Phượng màu đỏ nở rực vào mùa hè. Dưới tàn cây Phượng,
những người thợ hớt tóc dùng các ấm bạt để che mứa, nắng và dụng cụ hành nghề của họ gồm một cái ghế, một tấm kính, một miếng da giống dây nịt đề mài dao cạo và vài tờ nhật báo phát hành trong ngày d ành cho kh ách chờ đợi đọc . Bà con nói cây Phượng không lồ này có lẽ đã hơn trăm tuổi?

Kế tiếp là Sàigòn Ấn Quán, tiệm Phở Hoà Bình, nhà may Hồng Duyệt. Giữa tiệm phở và nhà may là môt con hẻm nhỏ số 29, có nhà của Hoạ Sĩ Đinh Cường ở đầu ngỏ, đi tiếp thì đến tiệm thuốc Bắc tên Đại Cồ Việt. Gia đình rất đông con. Trong số đó có một cô tên Mẫn, sinh viên Đại Học Văn Khoa. Cô có nước da trắng, dáng cao, nét hơi lai. Một thời cô Mẫn nổi tiếng về xem bói bài, được nhiều người nễ phục. Khách đến xem rất đông, phải lấy số thứ tự để chờ đến phiên mình được xem bói. Nhìn đồi diện là trường Nữ Tiểu Học Đồ Chiểu.

Để kết thúc bài viết. Xin viết ra một điều kỳ diệu, huyền bí không làm sao giải thích được:

“Tân Định và Đa Kao có lẽ là vùng đất an lành nhất của Sàigòn, Chợ Lớn và Gia đình.” Chắc là được Ơn Trên, Trời Đất, Ông Bà khuất mặt che chở và phù hộ. Vì thế bà con nơi đây lúc nào cũng sống trong thanh bình và an lạc. Mọi sinh hoạt gần như hai mươi bốn giờ, dù trong lúc chiến tranh, thiên tai, loạn lạc hay bất cứ biến cố quan trọng gì xảy ra cũng không ảnh hưởng đến địa danh này!

Đặc biệt, Tân Định và Đa Kao có nhiều đình, chùa, miếu, đền được xây cất trên đó đã từ lâu. Có cái đã tồn tại hơn một thế kỷ. Nay, thì diện tích các nơi thờ phượng, cúng bái đó đang dần dần bị thu nhỏ diện tích lại hoặc biến mất hẳn. Người ta cố tình đem dùng vào các mục đích thuơng mại, cho thuê mặt bằng, hay xây cất nhà cửa bất hợp pháp trên đó. Có vài nơi chỉ treo bảng gọi tên là đình, chùa. Nhưng thực chất bên trong thì hoàn toàn trống trơn, không có vẻ gì gọi là chỗ thờ phượng. Việc đụng chạm và xúc phạm đến những nơi thiêng liêng, tôn nghiêm đã bao đi nay có thể sẽ ảnh hưỏng phần nào đến vùng đất Địa Linh, Nhân Kiệt và an bình này trong tương lai?

Xin phép được dừng ở đây. Hy vọng các bạn đã tìm lại được một chút hương xưa của ngày tháng cũ! Tất cả chỉ còn là kỷ niệm. Nhưng
 “Kỷ niệm ấy hôm nay xa rồi! 
 Thời gian cuốn như dòng nước trôi 
 Còn đâu những giây phút bên nhau 
 Nhìn trăng lên trong những đêm thâu 
 Gửi tâm tư cho mây cùng gió.”

(Kỷ Niệm Xa Rồi - Nhạc Sĩ Nguyễn Hữu Thiết)
 Một lần nữa Tân Định & Đa Kao mãi mãi trong tiềm thức của chúng ta.

Trần Đình Phuớc
San José - California  (Viết lại Tháng Mười, năm 2015)
*** Tựa đề cũ Tân Định - Đakao Dễ Thương - Những Con Đường Vẫn Như Xưa.” viết năm 2010





Tuesday, October 20, 2015

Những Kỷ Niệm Vui Buồn

TRONG NGHỀ SỬA CHỮA TRỰC THĂNG UH-1

Cuộc đời con người ai cũng có những kỷ niệm buồn vui trong mỗi giai đoạn của cuộc sống. Vào cuối thập niên 60, đang độ tuổi thanh niên 19,20 tràn đầy sức sống

Lính Không Quân

1969-1975
4/2013






Lời mở đầuĐây là những kỷ niệm còn lại trong ký ức sau gần 40 năm, nhớ lại thời gian tôi làm việc tại Không Đoàn 43 Kỹ Thuật - Sư Đoàn 3 Không Quân (Biên Hòa) từ năm 1970 đến cuối năm 1974. Tôi chỉ là một chuyên viên kỹ thuật/chuyên ngành động cơ T-53-L13, thuộc Xưởng Động cơ.

Anh em chúng tôi sửa chữa và bảo trì động cơ cho 4 phi đạo trực thăng 221 – 223 - 231 và 245, sau này có thêm đội tải thương 259E. Ghi lại những kỷ niệm vui buồn này để chia sẻ cho bạn hữu và con em mình những gì tôi đã làm với tất cả lòng nhiệt tình và say mê với nghề, để phục vụ cho đất nước trong thời chiến. Thời đó, kỹ thuật còn nhiều giới hạn, công nghệ thông tin chưa phát triển, nhưng chúng tôi có cuộc sống khá lạc quan và giàu tình người, trong bầu trời trong lành. Những bài viết này đã đăng trong diễn đàn http://hoiquanphidung.com, Vui buồn với UH-1, Mai Tuấn, 4 kỳ đăng từ tháng 5/2012. Nay muốn trình bày thành một tập, thêm một số chi tiết và sửa chữa đôi ba chỗ. -- Nguyễn Tuấn Hoan (Mai Tuấn).


oOo

Vui buồn với UH-1


Cuộc đời con người ai cũng có những kỷ niệm buồn vui trong mỗi giai đoạn của cuộc sống. Vào cuối thập niên 60, đang độ tuổi thanh niên 19,20 tràn đầy sức sống với nhiều ước vọng nhất thì lại bị hạn chế bởi hoàn cảnh chiến tranh của đất nước, phải chấp nhận những chọn lựa mà mình không muốn. Tôi cũng như bao nhiêu anh em cùng lứa tuổi, đã phải rời ghế nhà trường để cống hiến cho đất nước tất cả sức lực và con tim của những thanh niên đang tuổi tràn đầy sức sống. Thời gian đã qua đi gần nửa thế kỷ, những đóng góp nhỏ nhoi thời ấy chẳng đáng kể gì, cũng chẳng làm nên sự gì, nhưng vẫn là những kỷ niệm của riêng mình: một người lính kỹ thuật Không Quân. Nay một sự tình cờ đã gợi lại cho tôi những kỷ niệm ấy, nên tôi muốn ghi lại để chia sẻ với bạn bè và con cháu mình những công việc tôi đã làm với tất cả lòng hăng say và yêu nghề.
Sự tình cờ thú vị...

Tôi tình cờ đọc được trên diễn đàn http://hoiquanphidung.com một số bài viết về trực thăng UH-1 mà không quân VNCH đã sử dụng trong đầu thập niên 70. Tôi rất thích thú về những bài viết này, đặc biệt là bài viết về lịch sử hình thành ngành trực thăng của KQVN do tác giả Đỗ Văn Hiếu, gồm 3 giai đoạn: từ phôi thai (1955-1957), phát triển (1958-1969) cho đến thời kỳ Việt Nam hóa chiến tranh (1970-1975). Cám ơn tác giả đã cho tôi mở rộng tầm nhìn để thấy được sự phát triển về ngành trực thăng của Không Quân VNCH và cũng qua đó gợi nhớ lại trong tôi nhiều kỷ niệm.

Tôi hoàn toàn không biết gì về 2 giai đoạn đầu, chưa có dịp nào được tiếp cận với loại trực thăng H-34 hay H-19, thế nhưng tôi lại may mắn đồng hành khá thân thiết với ngành trực thăng trong giai đoạn III với loại UH-1, nên muốn ngược dòng thời gian ghi lại đây đôi ba sự kiện trong ngành kỹ thuật, với tâm tình một người thợ yêu nghề như một kỷ niệm chia sẻ với bạn bè cũ mới. Trong các trang mạng hoặc sách báo tạp chí của Không Quân, các bài viết thường chỉ kể về ngành bay, dĩ nhiên rất hay, rất hào hùng và cũng rất bi hùng. Thật vậy, từ những chiến công lẫy lừng cho đến những đôi cánh gãy ngang trời, đều luôn mang khí phách anh hùng của Không Quân Việt Nam. Thế mà riêng tôi chưa thấy bài nào viết về ngành kỹ thuật, về mặt này, tuy âm thầm trầm lặng, nhưng không kém phần cần thiết. Để có một giờ bay đầy khí phách lướt trên ngàn mây gió đã phải có hàng chục giờ và còn nhiều hơn nữa của các chuyên viên đủ ngành, nào điện, nào vô tuyến, thuỷ điều, hệ thống xăng, khung phòng, cánh quạt, động cơ, cơ khí tổng quát, v.v. cặm cụi chỉnh sửa trang bị, luôn coi sinh mạng của những anh em phi công như của chính mình. Một chiếc xe hơi có thể bất ngờ bị trục trặc và dừng lại ở bất cứ nơi nào trên đường đi, nhưng máy bay thì phải an toàn tối đa, không có luật trừ. Trong thực tế, chiếc máy bay bị hỏng máy thì chỉ là một khối sắt vô dụng, Saint-Exupéry, nhà văn phi công đã diễn tả tâm trạng tuyệt vọng khi máy bay của ông bị rớt trong sa mạc mà không thể sửa chữa được, đành phải bỏ máy bay lại, rồi phải lang thang trong sa mạc với bao nỗi vất vả... (St Exupéry, Le Petit Prince); nhưng mặt khác, chiếc máy bay cũng chẳng hữu dụng nếu không có người điều khiển tài ba, giúp việc vận chuyển thuận lợi nhanh chóng hoặc thực hiện những phi vụ với những chiến công hào hùng: như phi công Trần Thế Vinh và nhiều anh em phi công khác. Những kỷ niệm ghi lại nơi tập sách này cũng là để minh họa cho mối tương quan giữa ngành kỹ thuật với ngành bay. Thời gian “hành nghề” của tôi chỉ hơn 4 năm nhưng rất thân thiết với trực thăng UH-1 và có nhiều kỷ niệm khó quên, dù thời gian đã qua đi gần 40 năm mà cứ ngỡ như hôm qua! Tôi nói không chủ quan chút nào là giả như bây giờ có bịt mắt lại tôi vẫn nhớ tên và vị trí của những cơ phận trên động cơ T-53-L13 của trực thăng UH-1, phân biệt đường ống nào dẫn dầu, đường ống nào dẫn xăng, những đường dây điện dẫn từ đâu đến đâu....

Tôi đến với nghề sửa chữa trực thăng thế nào?


Chẳng có gì là to tát cả, chỉ là vì năm 1969, thi rớt tú tài I và lại có lệnh tổng động viên, tôi nộp đơn gia nhập binh chủng Không Quân. Sau khi khám sức khỏe và có kết quả, ngày 17-10-1969 (ngày không thể quên), tôi từ giã cha mẹ anh em rồi bố tôi chở tôi đến cổng Phi Long, tôi cùng các tân binh khác tập trung và được dẫn vào “Ngôi nhà ma”, đó là một biệt thự cổ ở gần cổng Phi Long. Tại đây, chúng tôi làm thủ tục nhập trại, lãnh quân trang và những ngày sau đó là bài tập khởi đầu thật nhàm chán của nhà binh: những bước đi 1-2, 1-2, quay phải quay trái, đằng sau quay, đằng trước bước; rồi phạt bò, phạt chạy, hít đất.... Sau vài ba tuần, chúng tôi được đưa ra Sư Đoàn 2 Không Quân (Nha Trang) bằng tàu 502 của Hải Quân, nhưng chỉ ở đó chừng một tuần rồi được đưa ra trung tâm huấn luyện Lam Sơn (Dục Mỹ) để học quân sự. Đây là một trung tâm huấn luyện quân sự có tiếng, dành cho những binh chủng tác chiến, thế mà chúng tôi là lính kỹ thuật, thì đâu có nhất thiết phải bắt chúng tôi ở đủ 9 tuần với bao nhiêu vất vả, suốt ngày đêm di chuyển từ bãi này đến bãi khác trong rừng? Ấy chỉ vì trước đó mấy tháng, fulrô đột nhập vào các trại giết nhiều khóa sinh và tân binh, nên bộ chỉ huy quân trường không cho khóa sinh ngủ ở trại nữa, chỉ thỉnh thoảng về để giải quyết một số việc như lãnh lương, chích ngừa, hoặc một số việc cá nhân.... Các huấn luyện viên quân trường biết chúng tôi chỉ là lính kỹ thuật, nên để chúng tôi thoải mái, môn nào cũng chỉ giảng qua loa rồi cho nghỉ, cũng vì vậy học xong 9 tuần quân sự mà có anh em không biết bắn súng, hoặc chẳng biết tháo ráp một khẩu súng. Những ai từng học quân sự ở Lam Sơn hẳn phải nhớ câu: “Lam Sơn rừng núi âm u, ngày ăn cá chuồn tối ngủ đường mương” (là giao thông hào), còn một câu biến thể của câu này nhắc đến bà Xoài của căntin! Dù sao thì thời gian quân trường vất vả đó cũng không hẳn là vô ích, những sinh hoạt và những bài tập luyện đã đem lại cho chúng tôi sức chịu đựng bền bỉ, rắn rỏi hơn, nhanh nhẹn hơn, không còn mang dáng vẻ thư sinh yếu đuối của tuổi học sinh nữa.

Chúng tôi là khóa Không Quân cuối cùng học ở quân trường Lam Sơn và riêng tôi còn giữ mãi một kỷ niệm khó quên là vào ngày lễ Giáng Sinh năm 1969, Bộ chỉ huy quân trường cho nghỉ để những khóa sinh Công Giáo được dự lễ vào chiều ngày 25-12 tại Liên đoàn B. Thánh Lễ hôm ấy do chính đức cha Phan-xi-cô Xa-vi-ê Nguyễn Văn Thuận, Giám mục Nha Trang, chủ tế. Lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất tôi được thấy ngài. Tôi không thể quên khuôn mặt sáng ngời, đầy sự thánh thiện của ngài lúc trao Mình Thánh cho tôi. Đầu năm 1975, Đức cha được Tòa Thánh bổ nhiệm làm giám mục phó giáo phận Sài Gòn, thế mà chỉ ít lâu sau ngày 30-4-75, ngài đã phải đón nhận cuộc sống gian khổ trong lao tù cs, nhưng cuộc sống đó trở nên dấu chỉ của tình yêu thương và hy vọng cho những người canh giữ ngài, không coi họ như thù địch, trái lại ngài thấy họ đáng thương, đến đâu ngài cũng gieo rắc niềm hy vọng của Tin Mừng hầu cảm hóa họ, và ngài đã gặt hái nhiều hoa trái. Sau thời gian dài bị giam giữ, dù ngài chẳng có tội gì ngoài một tội là “Tin vào Đức Giê-su Ki-tô”!, ngài được can thiệp và sang làm việc tại Rô-ma, ít lâu sau ngài được phong Hồng Y và qua đời tại đây. Hiện nay, Tòa Thánh đang hoàn tất hồ sơ để phong thánh cho ngài. Cuộc đời Đức HY Phan-xi-ô Xa-vi-ê Nguyễn Văn Thuận quả là một hành trình trên ĐƯỜNG HY VỌNG và là chứng nhân của ĐỨC TIN.

Trường Kỹ Thuật Động Cơ Phản Lực.


Hoàn tất khóa quân trường, chúng tôi về trình diện bộ tư lệnh KQ, rồi sau đó tôi là một trong số 12 người được chọn vào Trường Kỹ Thuật Động cơ Phản Lực thuộc Sư đoàn 3 KQ Biên Hòa, mới thành lập tại VN để tiết giảm ngân phí du học. Chúng tôi là khóa đầu tiên (đầu năm 70) tôi còn nhớ vài nhân sự như giám đốc là thiếu tá Lắm, phụ tá là trung úy Tư, các huấn luyện viên như Phước, Láng, Tường, v.v. đều du học Hoa Kỳ về, và một vài người Mỹ. Tôi mãn khóa với hạng II nên được ưu tiên chọn đơn vị, nhưng ngoại trừ Sư đoàn 5 KQ - Tân sơn Nhất, nên chỉ còn chọn Sư đoàn 3KQ - Biên Hòa. Thời gian đầu tôi được điều về xưởng Động cơ phản lực F-5, lúc đó trưởng xưởng là thượng sĩ Lương Văn Tụi, qua những buổi đầu bỡ ngỡ tôi bắt đầu quen với bầu khí nhộn nhịp của phi đạo, máy bay ra, vào ụ hoặc kéo vào xưởng bằng xe tractor, rồi tiếng gầm rú của những chiếc F-5 mỗi lần thử máy. Việc thử máy phải làm tại khu vực riêng, máy bay được giữ chắc vào những điểm cố định trên nền bê-tông bởi những sợi dây cáp cột vào thân máy bay, lại phải có thêm những khúc gỗ chặn bánh, vì khi quay máy tăng ga tối đa, máy bay bị đẩy về phía trước với một lực hết sức lớn làm cho những giây cáp căng như giây đàn....

Các phi đạo trực thăng


Chưa quen lắm với loại động cơ J85 của F-5, thì tôi lại được điều qua phi đạo trực thăng, vì Sư đoàn 3 KQ, chính thức tiếp nhận phi đoàn đầu tiên là 223, mà sân đáp ghép bởi những vỉ sắt. Tôi và vài người bạn được một chuyên viên Hoa Kỳ hướng dẫn để tập sửa chữa những pan của động cơ. Cũng may là trong khóa học, nhà trường đã lấy động cơ T53-L-13 làm mẫu, nên chúng tôi rất mau hiểu. Khác với F5, sửa trực thăng thì phải đi theo khi bay thử, lần đầu tiên ngồi trực thăng thật thú vị, cảm giác được bay bổng và thích thú với phong cảnh vùn vụt lùi lại sau mình, nhất là như thấy mình đang lướt trên những ngọn cây, phải một thời gian tôi mới quen với độ cao và tốc độ. Test pilot là một sĩ quan Hoa Kỳ, tôi không nhớ cấp bậc, chỉ nhớ anh em gọi ông là Mr White. Ông bay rất vững, tính tình cởi mở, từng độ cao ông giải thích cho tôi từng chỉ số normal mà những đồng hồ trên phi kế hiển thị. Ít lâu sau, thì có những test pilot của KQVN, tôi nhớ không nhầm thì người đầu tiên là trung úy Tùng, sau lên đại úy, với nước da ngăm đen, khỏe mạnh. Ông điều khiển trực thăng một cách thuần thục, tư thái rất ung dung, ngồi cạnh ông tôi có cảm tưởng ông chẳng bận tâm gì đến động tác bay, chính đại úy Tùng thấy tôi thích nên trong lúc bay thử thường chỉ tôi bay bình phi, vì khi bay thử tôi thường ngồi ghế co-pilot, để theo dõi bảng phi kế; đối với trực thăng, khó nhất là hover, take off và landing, những việc này chuyên viên cơ khí rất hiếm người biết vì không được phép và không có cơ hội (tôi nhớ một người duy nhất là Thượng sĩ Tỷ, thuộc phi đạo 223, chỉ số “khung phòng”, anh chẳng những được phép quay máy mà còn cất cánh di chuyển máy bay từ ụ này sang ụ khác rất vững), còn bình phi thì chỉ tập ít thời gian là điều khiển cyclic dễ dàng, sau này mỗi lần đi công tác đôi lúc chỉ có một pilot, anh thường trao cyclic cho tôi điều khiển bay theo những tuyến đường quen thuộc như Tây Ninh chẳng hạn, tôi cứ nhắm núi Bà Đen và bay theo quốc lộ.

Càng ngày tôi càng quen dần với công việc và trở nên đam mê. Tôi dành nhiều thời gian đọc sách, những chuyên lệnh kỹ thuật (TM55-1520-210-35P...), năng học hỏi những bậc đàn anh, nhờ thế tay nghề mỗi ngày một tiến, dù chỉ số của tôi là 43230, nhưng tôi được cấp trên tin tưởng giao cho cả những việc chỉ dành cho cấp 43270. Gặp những pan phức tạp, tôi tìm mọi cách để sửa, khi không thể nào sửa được mới thay động cơ mới. Thời gian sau này, khi biết khả năng của tôi, sếp cũng lờ đi khi tôi linh động “quay máy” (run-up) mà không gọi test pilot, nhờ vậy giải quyết công việc được nhanh hơn. Như vào lúc 11, 12 giờ đêm, thật khó mà gọi ngay được test pilot, nhất là gặp những đêm trời mưa rả rích, có ai mà không ngại ngùng ra phi đạo chỉ để quay máy, phần chúng tôi cũng muốn xong sớm để nghỉ ngơi, mà chờ sang hôm sau thì không được, vì các máy bay phải ở trong tình trạng tốt để sẵn sàng các phi vụ đúng giờ. Việc “quay máy” rất nguy hiểm, pedal phải giữ thật cân bằng, nhất là lúc tăng ga đồng hồ RPM chỉ 6600, sơ ý một chút là máy bay bị lật. Nhắc đến việc “quay máy”, tôi không khỏi bật cười khi nhớ lại lần đầu tiên khi tôi “quay máy”, rồi sau đó không thể shutdown, kim đồng hồ RPM dừng ở 4200, loay hoay mãi và cũng hơi hoảng, rồi sau mới chợt nhớ ra là phải bấm nút idle rồi mới trả ga về off được, rõ là ngố! Một thời gian ngắn, việc quay máy trở nên quen thuộc với tôi, cũng như dễ dàng kiểm tra tất cả các đồng hồ có ở tình trạng normal hay không.

Chỉ trong thời gian chừng 2 năm, những phi đoàn 221, 231, 245 lần lượt ra đời và thêm một phi đoàn tải thương 259E. Những test pilot như trung úy Điệp, tr/úy Thành, th/úy Chiến trở nên quen thuộc với chuyên viên động cơ, tôi còn nhớ một test pilot nữa là đại úy Bình, một người trầm tĩnh và có tư cách đạo đức, ông là một phi công giỏi và nhiều kinh nghiệm. Dù quen thuộc với chuyên viên kỹ thuật, nhưng đôi lúc những anh em đó cũng bực mình vì cứ phải bay thử nhiều lần do yêu cầu của thợ sửa máy; như có lần, một chiếc bị RPM tăng giảm bất thường, tôi chỉnh đi chỉnh lại và pilot phải bay thử nhiều lần nên cũng bực mình, (nếu tôi nhớ không lầm thì chính là trung úy Điệp, một người hơi nguyên tắc và không mấy cởi mở) sau mấy lần bay, lần này hết kiên nhẫn, anh ta bay thật “ngoạn mục”, cất cánh thật cao, rồi cho “rơi tự do” (autorotation) vài ba lần. Nhưng trời cho tôi không bao giờ biết say sóng, say tàu, dù máy bay nghiêng ngả ra sao tôi vẫn bình thản, cũng may lần bay thử này kết quả tốt; chỉ tội nghiệp một anh bạn đồng nghiệp đi theo ói ra mật xanh, đến nỗi từ đó về sau anh này không bao giờ dám leo lên trực thăng khi bay thử.

Xưởng động cơ chúng tôi chia thành 3 toán, một toán chỉ làm trong xưởng và làm ban ngày, 2 toán làm ngoài phi đạo chia theo ca, đổi ca lúc 12:00g trưa. Sự phân chia này cũng tương đối thôi, và rất linh động cho phù hợp với công việc. Máy bay tiếp nhận ngày một nhiều mà chuyên viên ít, số đến sau chưa kinh nghiệm, một số lại không mặn mà với công việc, nên số anh em quen việc khá vất vả. Mỗi buổi sáng, các phi đoàn nhận lệnh bay và từng phi hành đoàn ra nhận máy bay, họ luôn phải check before flight chiếc họ bay dựa theo một checklist, lúc này các nhân viên cơ khí phải có mặt để sửa chữa cấp tốc những sơ xuất nhỏ để máy bay cất cánh đúng giờ và thường là vô sự. Nhưng đến 5, 6 giờ chiều, thì “đàn chim dù bay nghìn phương cũng về...”; như đàn chim về tổ, các phi đạo lại nhộn nhịp với những âm thanh phạch phạch của hàng chục chiếc trực thăng lần lượt đáp xuống và di chuyển vào các ụ chứa, tiếng mô-tô-rô-la ì xèo gọi cho phòng kiểm soát bảo trì, báo cáo chiếc này chảy xăng chiếc kia chảy dầu, chiếc này hư điện, hư đồng hồ, chiếc kia rung vertical, hoặc lateral.... Sau đó, nhân viên trực của phòng kiểm soát bảo trì báo cho các ban xưởng liên quan để ngành nào lo việc ngành đó. Ban động cơ chỉ có 5, 6 anh em chúng tôi, nên gặp những hôm có nhiều chiếc hư, chúng tôi sửa chữa suốt đến 9, 10 giờ đêm mới xong. Ngoài những hư hỏng, mọi chiếc máy bay đều phải làm “hậu phi” sau 24 giờ bay, phần động cơ phải làm sạch oil-filter, làm sạch và thay fuel-filter, những vòng đệm (orings) phải thay mới, kiểm tra và làm sạch chipdetector, lấy mẫu nhớt để gửi phòng Lab kiểm tra mạt kim loại. Còn nữa, sau 100 giờ bay phải kéo vào hangar để làm kiểm kỳ, kiểm tra toàn bộ hệ thống, thay mới một số cơ phận... và cứ sau 300 giờ bay, phải làm Hot-end, kiểm tra phòng đốt Combustion chamber (đây là công việc vất vả nhất). Ngoài ra, với số giờ bay ấn định phải thay động cơ mới.

Những chuyến công tác sửa chữa ngoài đơn vị


Trực thăng UH-1 là cách gọi tắt của: Utility Helicopter, nên thường gọi là UH-1. Có người gọi là “máy bay lên thẳng”, phải chăng gọi thế cho có vẻ bình dân, hay muốn khác người, mà thật ra vừa quê mùa vừa hàm hồ.... Mặc dù từ trực thăng tiếng Hán có nghĩa là lên thẳng; tôi không biết xuất xứ của từ này, nhưng nó đã trở nên một thuật ngữ quen thuộc để chỉ loại máy bay này, chỉ cần nói “trực thăng” thì ai cũng hiểu, còn nói “lên thẳng” thì chẳng ai hiểu được, lại phải thêm từ “máy bay” trước đó, thật dài dòng và khôi hài! Thực tế, chẳng có máy bay nào, kể cả trực thăng, từ đất cất cánh một lèo theo đường thẳng đứng lên cao cả vài ba trăm mét, rồi nhắm hướng bay tới. Trực thăng mà cất cánh kiểu đó dễ bị over-torque, nên tuy có lợi điểm hơn các loại máy bay khác là không cần đường băng, nhưng nó cũng phải được điều khiển kết hợp bởi cyclic và collective để vừa bay tới vừa cất lên cao. Từ trực thăng cũng chỉ là cách diễn nghĩa khi quan sát cách hoạt động của nó, chứ không phải là nội dung của chữ helicopter. Vì từ helicopter có nguồn gốc (etymology) trong tiếng Hy lạp, gồm 2 từ: ἑλιξ (hélix) có nghĩa là chong chóng và πτερον (pteron) có nghĩa là cái cánh, trực thăng cất cánh và bay tới hoặc lui bởi chong chóng cũng chính là cánh của nó, nên rất tiện dụng trong mọi tình huống, điều đó cũng có nghĩa là nó có thể đáp xuống bất kỳ đâu với một khoảng đất trống không cần lớn lắm. Chính vì thế, chúng tôi rất thường có những chuyến công tác ngoài đơn vị, có thể ở ngay trên quốc lộ đi Long Khánh, có lúc ở sát cầu Bến Lức hay giữa ruộng lúa, hoặc nơi một cánh đồng gần nhà dân ở Củ Chi. Những bãi đáp dã chiến như Lộc Ninh, Thiện Ngôn, Hố Bò hoặc khá hơn như Quản Lợi trở nên quen thuộc đối với tôi. Đó là những trường hợp bất thường phải đáp chờ chuyên viên lên sửa để tiếp tục bay. Hoặc trong khi bay thử có thể đáp nơi vùng đất trống, tắt máy chỉnh sửa rồi bay thử tiếp chứ không cần về đơn vị. Ngoài những chuyến công tác bất thường, chúng tôi thay nhau trực sửa chữa ở những căn cứ hành quân như Lai Khê, Tây Ninh (West) hay tại phi trường Trảng Lớn, trừ những hư hỏng nặng hoặc thiếu linh kiện, chúng tôi sửa chữa tại chỗ để máy bay luôn ở tình trạng tốt đáp ứng nhu cầu vận chuyển, tiếp tế, hành quân. Có thời gian tôi được sếp cắt đi công tác bên Kampong Cham, cứ sáng đi chiều về. Tôi còn nhớ một kỷ niệm nho nhỏ là hôm đầu tiên qua đó, chúng tôi mải đi xem phố, không để ý giờ bên Kampong Cham chênh lệch một tiếng với giờ Sài Gòn, khi về đến bãi đáp, không còn một chiếc trực thăng nào, thế là đành phải ngủ lại, vừa sợ vừa đói vừa muỗi, may là có một sĩ quan người Campuchia cho chúng tôi chỗ ngủ, chiều hôm sau mới theo đội máy bay trực chiến trong ngày để trở về Biên Hòa.

Tuy không trực tiếp bay ngoài mặt trận, nhưng cũng nhiều phen chuyên viên chúng tôi đứng tim, một lần tôi được cử đi An Lộc vì một chiếc được báo về là low torque và RPM tăng giảm bất thường, lúc đó chiến trường An Lộc rất căng thẳng (tôi nhớ không lầm thì khoảng năm 1972), khi đến nơi, chiếc trực thăng chở chúng tôi không thể đáp được vì đạn pháo kích từng đợt, khi đáp cánh quạt thổi bụi mù mịt làm rõ mục tiêu cho đạn pháo, viên phi công đã phải làm cú “forced landing” để đáp xuống điểm A rồi lướt càng thật xa và tắt máy tại điểm B, chúng tôi phóng đại xuống rồi chạy vội vào hầm trú của mấy anh Sư đoàn 5 Bộ binh. Ngồi trong hầm tôi chứng kiến chuẩn tướng Lê Văn Hưng, ngồi xe jeep (do anh em trong hầm cho biết), trên mui có đặt một tấm thép dày chống đạn, ông chạy tới chạy lui làm phận sự của mình, tôi mến phục sự can đảm và lòng nhiệt thành trong sứ mạng của một vị tướng tài như ông. Thế rồi suốt một ngày chúng tôi không thể đến chiếc bị hư để sửa, chỉ mở cover động cơ để đó, thấy hơi yên ổn, tôi liều chạy ra leo lên, vừa cắt giây safety wire ở fuel control chưa kịp chỉnh thì một quả pháo nổ tuy khá xa, nhưng cũng làm cho những người lính kỹ thuật không quen với chiến trường sợ run, tôi lại ba chân bốn cẳng chạy vội vào hầm trú. Cuối cùng thì cũng đành trở về. Khi bay về cũng rất căng thẳng và hồi hộp, phải đợi phi công quay máy rồi toán kỹ thuật mới nhảy lên và máy bay cất cánh. Bầu trời An Lộc u ám, những phi cơ chiến đấu F5, A37, A-1 Skyraider bay đầy trời, chiếc trực thăng quá mỏng manh và chậm rãi, đôi khi tôi rùng mình cảm tưởng như những chiếc phản lực kia như muốn đâm vào chúng tôi, có lúc một chiếc F5 nhào xuống thả bom và cất cánh lên như một hình parabol mà máy bay chúng tôi đang ở giữa khoảng trống, nên chúng tôi nhìn rõ mồn một toàn phần lưng của chiếc F5 bay lên với tiếng gầm rú kinh hồn, thử tưởng tượng nếu chiếc F5 bay lên đúng vào tầm bay của chiếc trực thăng này thì ngay cả chuyên viên cũng được ở trong số những kẻ đi không ai tìm xác rơi. Tôi thầm cầu nguyện cho chuyến về được bình an, và chỉ khi nhìn thấy núi Châu Thới, rồi núi Bửu Long mới thấy nhẹ người, và bỗng thấy cảm thương những người lính thuộc những binh chủng chiến đấu, đang ngày đêm đối diện với bao nguy hiểm và cả cái chết nơi chiến trường An Lộc. Họ cũng là những người có cha mẹ, vợ con hằng ngày trông chờ, nhưng họ phải chu toàn bổn phận của những người trai trong thời chiến. So với những anh em đó, những người lính kỹ thuật chúng tôi quả thật là được ưu đãi nhiều. Chúng tôi chỉ thoáng đến rồi đi, sự nguy hiểm cũng chỉ trong chốc lát, rồi lại trở về với cảnh nhộn nhịp của thành phố, như chưa hề biết đến cái giá phải trả của những thanh niên ngày đêm chiến đấu để đem lại sự thanh bình cho phố phường.

Diễn đàn Hội Quán Phi Dũng


Tôi gửi bài trên đây cho ban biên tập Hội Quán Phi Dũng, một diễn đàn của những anh em phi hành, và anh em cũng đã đón nhận đăng bài của tôi, và chen vào bài viết những hình ảnh minh họa, chẳng những làm vui mắt người đọc mà còn củng cố thêm cho nội dung bài viết. Thỉnh thoảng tôi vẫn gặp vài ba anh em đã từng lăn lộn với công việc sửa chữa bảo trì động cơ trực thăng UH-1 tại Sư đoàn 3 Không Quân. Nhưng hầu như chẳng mấy người muốn nhắc đến công việc này, chuyện của dĩ vãng mà, muốn quên đi để chỉ chú tâm lo miếng cơm manh áo; anh em nào may mắn cách này cách khác được sống ở nước ngoài lại càng bận rộn hơn nữa, cách nay gần 10 năm, bà xã tôi có dịp sang Mỹ thăm gia đình ngoại ở California (đi theo diện HO) đã thấy được nhịp sống tại đây như thế nào, nên càng hiểu được điều đó. Cũng có những anh em chẳng còn một ấn tượng nào về công việc năm xưa, vì ngay trong thời gian làm việc cũng chẳng mặn mà gì với chuyên môn, riêng tôi thì thú thật là tôi rất say mê cái nghề sửa chữa động cơ trực thăng UH-1 nên dù đã mấy chục năm trôi qua, trải bao vất vả khi việc này lúc việc kia để lo cuộc sống, sức khỏe thể lý đã suy giảm, chưa già hẳn nhưng chẳng còn trẻ nữa, thế mà khi vô tình đọc được mấy bài viết về trực thăng lại thấy như bị gãi đúng chỗ ngứa, bèn dành chút giờ nghỉ viết đôi ba kỷ niệm ngày xưa, mong góp vui với các bác, với anh em bạn hữu và cũng để lại cho con cháu đọc cho vui. Chúng mình bây giờ già hết rồi, chẳng còn mặc cảm quan hay lính, tất cả là bằng hữu, cái tình người là quý, cả đời người mà làm cho một người có niềm vui cũng là quý lắm rồi.

Những gì tôi viết hoàn toàn dựa trên ký ức, nên chắc hẳn có một vài chi tiết về thời gian và nơi chốn khó tránh khỏi nhầm lẫn, rất mong mọi người thông cảm. Cũng xin nói thêm là tôi chỉ sửa chữa UH-1 đến khoảng cuối năm 1974, rồi hoán chuyển với một anh em có gia đình ở Biên Hòa, tôi về Sư đoàn 5 KQ, phi đạo 821/AC-119K, tập tành làm quen với động cơ J-85, gắn 2 bên cánh AC-119K, nhưng tôi vẫn nhớ đến những chiếc trực thăng thân thương với bao kỷ niệm, vì thế mà cho đến ngày tan hàng 30-4-1975 tôi cũng chưa quen thuộc với cô nàng J-85 dù gần gũi đêm ngày; phải chăng T-53-L13 là “mối tình đầu khó quên”! Còn nhớ những lần đến phiên đi công tác Đà Nẵng, mỗi đợt 15 đến 20 ngày, trực sửa chữa 4 chiếc AC-119K (phía cổng Phước Tường), tôi cũng chỉ sửa được những pan lặt vặt, những pan khó khăn lại phải chờ anh em từ Sài Gòn ra. Làm việc tại phi đạo 821 cho đến những ngày cuối cùng, chứng kiến những chiếc AC-119K cất cánh trong đêm rồi ra đi từ những ngày 26-4. Lẽ ra tôi cũng di tản nhưng phần thì quyến luyến cha mẹ anh em, phần thì hoang mang không biết ra đi cuộc sống sẽ ra sao, trước mắt thì cả phi trường chìm trong khói lửa súng đạn, pháo kích bừa bãi, một vài máy bay mới cất cánh đã bị bắn rơi cháy nổ... cuối cùng tôi quyết định ra khỏi phi trường trở về nhà lúc 10 giờ sáng 29-4 để rồi phải hòa nhập, trong một mức độ nào đó, với cuộc sống mới.

Và đến nay cuộc sống gần bằng thời gian của dân Do thái trên hành trình vượt qua sa mạc tiến về đất hứa, nhưng dù sao, dân Do thái sau 40 năm gian nan, chịu đựng đói khát, cực khổ, mất mát họ cũng may mắn vào được đất hứa. Cũng như dân Do Thái, cuộc sống đã dạy tôi nhiều bài học với những cái được cái mất, không nên nuối tiếc và bám víu vào những cái phụ thuộc trong cuộc đời, phải chấp nhận mất những cái đáng mất, nhưng đừng bao giờ đánh mất chính mình, đó chính là đánh mất niềm tin, mất ý nghĩa cuộc đời. Trong đời học sinh cũng như trong đời lính, tôi đã học được nhiều điều hay điều tốt, đó là những kinh nghiệm giúp tôi thăng tiến, không phải để làm nên sự nghiệp gì mà là cố gắng để nên một con người.

Giờ đây xin được tiếp tục ghi lại những gì mà ký ức tôi còn giữ được. Tôi xin kể đôi ba chuyện liên quan ít nhiều đến ngành kỹ thuật Trực thăng UH-1. Chuyện gây nhiều ấn tượng cho tôi xảy ra sau chừng hơn nửa năm vào nghề, đó là chiếc trực thăng chở Tướng Đỗ Cao Trí bị rơi ở Tây Ninh. Đứng trên phương diện kỹ thuật thì bất kỳ trực thăng nào chúng tôi cũng phải sửa chữa cẩn thận để tránh mọi sơ sót, và lại càng thận trọng hơn đối với những chiếc được sử dụng vào những công tác đặc biệt. Nhưng có những trường hợp xảy ra thật bất ngờ như trường hợp này.

Cái chết của Tướng Đỗ Cao Trí và những con số 3.


Đây chỉ là vài chi tiết do sự liên tưởng của tôi, ghi lại như một kỷ niệm cho vui chứ không mang tính chất quan trọng nào liên quan đến tai nạn phi cơ này.

Số là vào khoảng giữa tháng 2/1971, ca trực sửa chữa của tôi được giao cho việc thay động cơ mới cho chiếc 023 thuộc phi đạo 223. Việc thay động cơ mới luôn luôn phải bay thử, chỉnh sửa nhiều lần. Chiếc 023 này, hai toán sửa chữa đã phải thay phiên nhau 2 lần mới xong, lần bay thử cuối cùng là chiều thứ sáu, thuộc về ca của tôi, tôi ký vào forme tình trạng động cơ tốt. Tôi rất thận trọng trong suốt thời gian thay và chỉnh sửa động cơ cho chiếc này, tôi thấy bên hông có gắn bảng VIP với một bảng vẽ 3 ngôi sao, nên biết chiếc này dành cho một Trung tướng nào đó. Sáng thứ bảy, chiếc 023 đã được giao qua Quân đoàn III, đến trưa thứ ba tuần kế đó, tôi từ Sài Gòn lên đổi ca, vừa bước vào xưởng, theo thói quen, tôi nhìn lên bảng “Tình Trạng Phi Cơ” xem công việc phải làm, thì bỗng giật mình khi nhìn thấy trên đó ghi: 023 bị rớt tại Tây Ninh.

Và anh em trong xưởng cho biết chiếc này chở tướng Đỗ Cao Trí, ông và toàn thể phi hành đoàn đều tử nạn. Sếp của tôi và vài anh em ca trước đã đi hốt xác động cơ về đưa đi kiểm tra nguyên nhân bị nổ. Tôi cũng lo âu, nhưng sau đó sếp tôi đã trình bày tất cả cho an ninh, tôi cũng không gặp rắc rối gì.

Từ sau vụ này, một số anh em trong toán phi đạo hễ cứ ra phi cơ mà thấy gắn bảng VIP và có bảng vẽ ngôi sao là lại đùn đẩy cho tôi, tôi không hề tránh né, vẫn làm với tất cả khả năng và tính cẩn thận của tôi. Vả lại, tôi thường nói với bạn bè cùng toán rằng máy bay nào mà chẳng mang theo những sinh mạng, từ phi hành đoàn đến hành khách, là dân hay tướng thì sinh mạng nào chẳng quý! Trở lại câu chuyện trên, tôi ngồi liên tưởng về sự trùng hợp lạ lùng của những con số 3. Đi từ chiếc trực thăng mang số 023 là một trong số hơn 30 chiếc của phi đạo 223, thuộc không đoàn 43 chiến thuật của Sư đoàn 3 Không Quân, vị tướng mang quân hàm 3 sao, tư lệnh Quân đoàn 3 thuộc vùng 3 chiến thuật, ngày bị tai nạn là thứ ba ngày 23 tháng 2. Đây chỉ là những liên tưởng cho vui không mang tính chất huyền bí gì cả, chính vì có những trùng hợp đó mà tôi nhớ lâu. Dĩ nhiên việc chiếc trực thăng 023 bị tai nạn không do sơ xuất kỹ thuật, nếu không thì tôi đã không tránh được trách nhiệm. Nhưng dù sao biến cố đó cũng gởi cho tôi một sứ điệp là phải luôn luôn cẩn thận, chu đáo đến từng chi tiết trong mọi công việc được giao phó, tránh được những sai sót đáng tiếc và luôn cảm thấy an tâm. Thật đáng tiếc một vị tướng trẻ có tài, thời chiến là thế, những cái chết ở mọi hình thức xảy ra trong mọi tình huống và chẳng ai được miễn trừ. Khác nhau là chết vì lý tưởng trong sáng, vì mục đích cao đẹp....

Một thay đổi kỹ thuật quan trọng cho động cơ UH


Khoảng giữa năm 1972, khi trận chiến An Lộc trở nên khốc liệt, và trực thăng bị đe doạ vì một loại vũ khí mới của bộ đội BV là hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7, một số đã bị trúng loại hỏa tiễn này, nhưng số trực thăng thật sự bị tiêu hủy không nhiều như một số tài liệu đã nêu, kể cả bị bắn bởi những loại phòng không khác. Cũng có những trường hợp bị bắn hư hỏng, nhưng tùy theo mức độ: nếu nhẹ thì sửa tại chỗ để tiếp tục các phi vụ, hai là tạm bay về đơn vị để sửa, trường hợp hư hại nặng không thể bay được thì mới xin trực thăng CH-47 câu về đơn vị. Một đôi ba lần vì lý do nào đó, một toán chuyên viên các ban đến nơi gỡ lấy những vật liệu còn sử dụng được, còn xác máy bay bị dân địa phương làm thịt, đó chỉ còn là những ống nhôm hay những miếng kim loại. Phần sau cùng của động cơ gọi là khu vực khí thoát – rear exhaust có gắn một phần hình ống gọi là Exhaust (như ống “bô” xe máy) với nhiệt độ khí thoát -Exhaust Gas Temperature lên đến hơn 580°C. Những hỏa tiễn SA-7 bắn lên trong một khoảng cách vừa đủ (tôi không chuyên môn nên không biết là bao nhiêu), theo hơi nóng nó sẽ chui vào exhaust phát nổ. Một khi động cơ bị nổ thì chắc chắn máy bay sẽ rớt và phát hỏa. SA-7 là một mối lo cho các pilot trực thăng, chỉ một vài trường hợp hiếm hoi nhờ nhanh trí và bình tĩnh của phi công để thoát được sự tấn công của SA-7, một loại vũ khí hiểm độc. Trực thăng bay chậm (chỉ khoảng 120 knot) và thấp (thường chỉ 3000 đến 5000 feets), nên có nhiều nguy cơ hơn các loại phản lực hay khu trục. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, một số lượng lớn loại Exhaust được đưa về đơn vị và chúng tôi được huy động tăng giờ làm việc để thay một loạt loại Exhaust như hình phễu, hướng khí thoát lên phía main rotor (xem hình minh họa). Như vậy, hơi nóng được đưa lên và cánh quạt làm tan loãng đi. Kể từ khi các trực thăng của 4 phi đoàn 221, 223, 231, 245 được thay Exhaust, đã giảm hẳn mối đe doạ của hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7. Trong khi thay những ống thoát khí này, tôi có cảm tưởng là nhà chế tạo Lycoming của Hoa Kỳ như đã tính toán từ trước, cho nên chuyên viên chỉ cần tháo phần cũ ra, gắn phần mới vào thì tất cả mọi vị trí đều ăn khớp với nhau, từ những con chốt, con vít. Nhiều yếu tố như thể được làm sẵn cho loại Exhaust mới này! Nghĩ cho cùng, dân tộc Việt Nam thật đáng thương, như một số người nói, là môi trường cho người ta tiêu thụ và tranh đua vũ khí hay nói theo giáo lý Công Giáo là cuộc chạy đua vũ trang, đó là một tai họa hết sức trầm trọng cho nhân loại nói chung (Gaudium et Spes 81). Kẻ gây chiến tranh mang một tội ác không thể tha thứ. Nhưng hòa bình cũng không chỉ là vắng bóng chiến tranh, vì có những thứ hòa bình đặt nền tảng trên dối trá và bạo lực, phẩm giá con người không được tôn trọng, một thứ hòa bình giả tạo, và như thế còn tai họa hơn chiến tranh. Tuy nhiên khi không tránh khỏi chiến tranh, thì giáo lý Công Giáo cũng đưa ra nhận định rằng: Những người phục vụ tổ quốc trong quân đội là những kẻ phụng sự cho an ninh và tự do của các dân tộc. Khi chu toàn đúng đắn bổn phận, họ thật sự góp phần vào ích lợi chung của quốc gia và gìn giữ hòa bình (GS 79). Đây không phải là những suy nghĩ của tôi mà là tiếng nói chính thức của Công Đồng Va-ti-can II trong Hiến Chế “Hội Thánh trong thế giới ngày nay”, một trong những văn kiện quan trọng của Công Đồng Va-ti-can II, một công đồng lớn nhất trong lịch sử 2000 năm của Giáo Hội Công Giáo.

Sau ngày 30-4-75, người ta gọi chúng tôi là “lính ngụy”, rồi hầu như mọi người chung quanh tôi cũng quen miệng gọi nhau như thế! Còn đối với tôi, vẫn luôn nghĩ rằng trong suốt 5, 6 năm phục vụ trong quân đội, với cấp bậc thấp nhất, tôi đã làm trọn phận sự của một thanh niên trong thời chiến. Tôi đã luôn cảm thấy niềm vui khi chu toàn bổn phận này, không nên quen miệng gọi những anh em mình hay chính bản thân mình bằng cái danh từ khiếm nhã ấy, và phải dạy cho các con cái mình không được gọi những người lính Cộng Hòa năm xưa là “lính ngụy”, vì trong đó cũng có ông nội, ông ngoại, chú bác và cha mình, và còn biết bao nhiều người rất đáng kính trọng về nhân cách, cũng như trổi vượt về trí tuệ và lòng quả cảm. Những suy nghĩ này không thể thiếu trong việc giáo dục nhân bản cho con cháu mình.

Trong các từ điển tiếng Việt, đều có một định nghĩa về danh từ ngụy như sau: giả dối, giặc giã, làm loạn, phản lại chính quyền. Thế mà, chính quyền miền Nam VN là một chính quyền hợp pháp, được quốc tế công nhận, và chính phủ chỉ lo kiến thiết đất nước, không xâm lăng chiếm đóng ai, nếu có chiến đấu là chỉ để tự bảo vệ lãnh thổ của mình. Đời sống của người dân thật sự tự do và chúng tôi đã sống cuộc đời học sinh thật hạnh phúc, cho đến khi đi lính cũng được đào tạo rất nhân bản và cho dù sống trong kỷ luật của quân đội, con người vẫn được tôn trọng, có nhiều cơ hội thuận lợi để trau dồi kiến thức hoặc thăng tiến trong ngành nghề. Một chính quyền và một quân đội như thế không thể gọi là “ngụy” được.

Anh em kỹ thuật chúng tôi còn nhiều chuyện vui lắm, tuy không hào hùng như các anh em pilot nhiều phen đã chiếm chiến công ngang trời, nhưng chúng tôi cũng ngày ngày sống hòa nhịp đời cùng ngàn kiếp chim. Nhiều lần, chúng tôi phải thức cho đến 2 giờ sáng để sửa chữa một động cơ bị hư hỏng nặng, như phải thay fuel control, tháo phần compressor vì bị FOD, thay Starter generator v.v. cũng thông cảm cho anh em vì áp lực công việc, nên không tránh khỏi những lời than vãn, hoặc tuôn ra những từ mang vần đ.... Tôi còn nhớ thiếu tá Phan Võ Viên – Liên đoàn trưởng - nhiều phen gây cho chúng tôi bực mình, vì ông hay la hét om sòm hối thúc làm cho mau, ông cũng sử dụng vần đ... rất nhuần nhuyễn. Thật ra ông cũng chỉ vì nhiệm vụ thôi, có lúc ông đứng nhìn chúng tôi làm tới khuya, thậm chí cũng cầm bánh mì gặm như chúng tôi. Mỗi lần ông đi khỏi hangar trở về nhà ông bên khu gia binh, anh em cứ nhại lại những câu nói của ông rồi cười với nhau, nhờ vậy cũng đỡ buồn ngủ, và như một cách xả stress.

Những biến cố khó quên


Câu chuyện này xin gửi đến những anh em năm xưa thuộc toán phi đạo, liên đoàn 43 kỹ thuật, xưởng Động Cơ UH-1 (hangar 2, ngay bãi rửa trực thăng), để nhớ những ngày phải ngủ trong mấy cái cô-nếc (conex) sau khi hangar bị sập vì kho bom gần khu phi đạo 237, Chinook-47, bị phát nổ. Cũng tặng anh Trương Quang Vinh và nhóm anh em mới quen qua anh Vinh, thuộc Sư đoàn 2 KQ trước 1975 hiện đang sống tại Mỹ.


Ông bà mình thường nói: Sống chết có số, và một câu nói khác diễn tả cái mong manh của cuộc đời: Sống chết trong gang tấc, ý nói giữa sự sống và cái chết có một khoảng cách thật gần. Đối với những anh em tác chiến ngoài mặt trận, ngày đêm phải đối diện với tử thần, hằng ngày chứng kiến bao nhiêu cảnh thương vong của đồng đội, thì sống chết là chuyện bình thường, lại càng có cơ hội để thấy chính bản thân mình đã trải qua nhiều phen sống chết trong gang tấc. Riêng tôi, phục vụ trong ngành kỹ thuật, cũng có đôi ba lần cho tôi cảm nhận cái ranh giới mong manh giữa sống và chết.

Câu nói “Sống chết có số” là câu nói cửa miệng của dân gian, còn với cái nhìn đức tin, tôi vẫn luôn tin rằng sống hay chết là những thực tại nằm trong chương trình của Thiên Chúa đối với nhân loại nói chung. Sống hay chết, con người vẫn thuộc về Thiên Chúa, vẫn nằm trong kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa. Đức tin là thế, nhưng phàm là con người, chẳng ai không sợ chết, và chẳng ai lại không vui mừng khi thoát được cái chết trong gang tấc. Những tâm tình tôi viết đây, vẫn là những kỷ niệm vui buồn trong nghề sửa chữa UH-1, chia sẻ với các bác và anh em với ước mong đem lại một niềm vui nho nhỏ để thư giãn trong những dịp gặp nhau của những người bạn già ngành kỹ thuật máy bay.

Kho bom nổ


Câu chuyện xảy ra vào một buổi sáng Chúa Nhật năm 1973(?), tôi không còn nhớ được chính xác ngày tháng. Chúa Nhật thì chỉ có những ca trực sửa chữa, còn các cấp chỉ huy và anh em làm theo giờ hành chánh đều nghỉ, nên khu phi đạo rất vắng. Ca trực của xưởng động cơ hôm nay chỉ còn mình tôi, còn các anh em, người thì qua câu lạc bộ chơi bi da, người thì ra nhà ngoài phố Biên Hòa, hoặc khu gia binh, cũng có người ở Sài Gòn không chịu lên ca. Một phần vì tôi không có xe máy và cũng không có thói quen đi chơi, làm xong việc tôi chỉ muốn ngồi đọc sách mà thôi. Cũng xin nói thêm là từ khi công việc ổn định, tôi tận dụng giờ nghỉ, ra ca trực là về Sài Gòn đi học văn hóa, sau khi đậu tú tài 1 rồi 2, tôi theo học khoa Triết của đại học Văn Khoa Sài Gòn. Đây là chuyện bình thường vì thời ấy nhiều anh em trong quân ngũ vẫn cố gắng theo đuổi việc học văn hóa, chẳng riêng gì Không Quân mà mọi binh chủng trong quân đội VNCH, ngay cả trong những đơn vị tác chiến, quân nhân nào muốn học muốn thi đều được khuyến khích, nâng đỡ. Các anh em quân nhân thường ghi danh bên trường Đại học Luật nhiều hơn Văn Khoa, tôi có gặp một hai pilot của phi đoàn 221 ở trường Luật. Tôi chỉ học ở đây năm đầu, thấy không thích hợp nên chạy qua Văn Khoa, mới được vài năm chưa ra ngô ra khoai thì phải ngưng vì biến cố 30/4.... Tôi chẳng có tham vọng gì, mà chỉ lấy việc trau dồi kiến thức làm niềm vui, nhưng không bao giờ đem sự học ra khoe khoang với anh em, tôi hay nói cho vui là học để giảm bớt cái dốt của mình. Tôi luôn tạo được bầu khí thân thiện với mọi anh em trong xưởng, giúp được ai điều gì tôi sẵn sàng, và luôn tôn trọng mọi người, nên hầu hết anh em quý tôi, vì vậy, đôi khi tôi có ra về sớm để đi học cũng chẳng ai tỏ vẻ khó chịu. Bù lại trong ca trực tôi làm hết mình, gặp ca trực vào ngày Chúa Nhật, anh em đi chơi hết, tôi vẫn vui vẻ trực một mình tận dụng những giờ yên tĩnh này để đọc sách. Những ca trực “cô đơn” như buổi sáng CN hôm nay là chuyện thường xuyên và câu chuyện đã xảy ra như thế này:

Khoảng 9 giờ 30, phòng kiểm soát bảo trì gọi interphone báo một chiếc trực thăng bị hư động cơ, đáp khẩn cấp ở Long Khánh, yêu cầu cho người đi sửa. Tôi nhận tin nhưng vẫn ngồi đọc sách, lúc sau phòng ksbt lại gọi, tôi trả lời là xưởng không còn ai, đợi lát nữa có anh em nào tới tôi sẽ đi, tôi cố ý kéo dài thời gian xem có anh em nào tới không. Lần thứ ba, sau khi tôi vẫn trả lời là chờ có người coi xưởng, nên có lẽ hết kiên nhẫn, trung úy Luân lái xe pick-up từ liên đoàn chạy thẳng vào hangar, đậu ngay xưởng quát tôi lấy đồ nghề đi ngay, không có người coi thì khóa cửa xưởng lại; ông còn dọa nhốt tôi nếu chậm trễ! Tôi lấy vài món vật liệu cần thiết và xách túi đồ nghề leo lên xe. Loại xe này phần sau không có mui, không có ghế, phải ngồi trên thành xe. Trung úy Luân như muốn xả cơn bực mình, ông lui xe một phát ra khỏi hangar, sang số tới và nhấn ga chạy ào ra phi đạo, tôi không bám chắc có lẽ bị té ngửa rồi! Một chiếc máy bay đậu cuối phi đạo 221 đang quay máy chờ, ngoài phi hành đoàn thì có 3, 4 anh em kỹ thuật thuộc ban điện, phi trang... chỉ còn thiếu tôi, thuộc ban động cơ. Chạy tới nơi, ông Luân thắng xe thật gấp rồi quay lại nhìn tôi chằm chằm, tôi chẳng nói gì cả nhảy xuống xe leo vội lên máy bay, pilot có lẽ chờ lâu cũng sốt ruột, chẳng cần biết tôi đã ngồi vững chưa đã kéo collective nhấc lên nhắm hướng Long Khánh bay tới. Mới cất cánh lên khoảng hơn 1000 feets, chưa ra khỏi vùng Biên Hòa, mọi người bỗng nghe những tiếng nổ vang rền, nhìn lại phi trường thấy nhiều khói bốc lên. Vì phi trường Biên Hòa thường xuyên bị vc pháo kích, nên chúng tôi cũng chỉ nghĩ là lại bị pháo kích, tuy cũng hơi thấy lạ là vì thường chúng chỉ pháo kích vào ban đêm chứ rất hiếm khi pháo kích vào ban ngày.

Đến điểm có chiếc máy bay bị hư hỏng, vừa đáp xuống, chúng tôi bắt tay vào việc sửa chữa ngay và đến quá buổi trưa mới xong, chúng tôi lên máy bay trở về đơn vị. Về đến phi trường Biên Hòa khoảng 15 giờ chiều, khi máy bay chuẩn bị đáp xuống phi đạo, tôi nhìn thấy một cảnh tượng hết sức kinh hoàng, tưởng như một nơi nào, không còn nhận ra khung cảnh quen thuộc của phi đạo 221, vì khắp nơi ngổn ngang những miểng bom, những chiếc trực thăng đậu trong các ụ, cái thì gãy main rotor, cái thì móp phần thân, rách, thủng hoặc hư phần đuôi (tailboom), có chiếc bị gãy ngang phần đuôi. Kinh khủng hơn nữa, một nửa hangar phía xưởng động cơ, sập xuống, cũng may trong hangar hôm đó chỉ có vài chiếc máy bay, còn người thì không có ai, người duy nhất là tôi thì đã đi công tác khỏi đó. Hangar được cấu trúc bằng những khung sắt lớn, trên lợp tôn dày, có thể chứa hơn mười chiếc trực thăng. Xưởng động cơ hoàn toàn bị đè bẹp, đồ dùng cá nhân và dụng cụ sửa chữa của anh em bị kẹt trong đống đổ nát. Tôi đứng lặng người nghĩ ngay rằng mình vừa thoát chết trong gang tấc. Trung úy Luân vì sốt ruột đã vô tình cứu tôi, cũng cứu cả phi hành đoàn và mấy anh em kỹ thuật nữa. Sự chần chờ của tôi hóa ra lại là cái may, vì nếu sau khi nghe phòng kiểm soát bảo trì gọi lần thứ 3, mà tôi xách đồ đi ngay, thì khoảng thời gian đi bộ từ xưởng ra vẫn chậm hơn và khi kho bom nổ, chắc chắn tôi chưa đi đến chỗ chiếc trực thăng đang quay máy chờ, nếu pilot cất cánh kịp thì chỉ mình tôi bị nạn. Nhưng liệu pilot có bình tĩnh để cất cánh kịp thời hay không, hay là sẽ hốt hoảng vì lúc ấy những tiếng nổ long trời với những miểng bom văng rất xa, thậm chí có nhiều miểng văng tới phi đạo 231, 245.

Nguyên nhân kho bom phát nổ là do bị đặt mìn. Vụ nổ xảy ra trong ngày nghỉ, nên đỡ thiệt hại về nhân mạng, tôi nhớ là có khoảng 5 hay 6 người vì đánh bài trong khu vực kho bom nên không ai thoát, phải mất mấy ngày sau mới tìm đủ xác, nhưng xác không nguyên vẹn, thiếu tay, thiếu chân.... Nếu là ngày làm việc thì không biết còn bao nhiêu anh em kỹ thuật thiệt mạng.

Phải mất một thời gian để sửa lại hangar và dọn dẹp lại xưởng động cơ, nên tạm thời anh em thuộc ca trực sửa chữa phải sử dụng mấy cái cô-nếc để cất dụng cụ sửa chữa, và cũng là nơi tránh mưa tránh gió. Ban ngày thì nóng như lò hấp, những đêm mưa gió thì lại ấm, nhưng lại cũng rất bí. Trong đời lính mà nghe đến chuyện bị nhốt vào cô-nếc là sợ lắm, còn trong hoàn cảnh của anh em tôi, có mấy cái cô-nếc là mừng lắm. Với tuổi đời còn trẻ, lại hăng hái trong công việc nên anh em tôi rất dễ thích nghi với hoàn cảnh, chẳng hề thấy cực nhọc, vả lại so với những người lính xông pha ngoài chiến trường thì những người lính kỹ thuật quả là an nhàn hơn nhiều. Tôi đã nhiều dịp chứng kiến cảnh sống thiếu thốn trăm bề với những hiểm nguy về sinh mạng của những người lính trấn đóng trên những vùng hoang vu hẻo lánh, xa cách những tiện nghi của phố xá, như núi Tánh Linh ở Bình Tuy, hay núi Bà Đen ở Tây Ninh, ngày đêm chỉ quanh quẩn trong một phạm vi trên đỉnh hoặc lưng chừng ngọn núi. Còn chúng tôi chỉ thoáng đến đó để sửa một pan hư hỏng rồi lại lên máy bay về đơn vị. Mỗi lần máy bay cất cánh bay lên trước mắt những người lính đóng quân ở đây, nhìn ánh mắt họ nhìn theo chúng tôi, tôi cảm nhận được nơi họ nỗi nhớ nhà, nhớ người thân mà không thể về được vì nhiệm vụ của mình. Thỉnh thoảng cũng có những người lính, cũng có cả hạ sĩ quan hoặc sĩ quan, đến xin với mấy anh pilot cho “quá giang” về vì không thể nào đi bằng đường bộ. Nhưng thường là bị từ chối, trừ khi người ấy có giấy phép hoặc có cấp chỉ huy trực tiếp gửi. Sở dĩ các pilot từ chối là vì đã từng có những trường hợp mấy hạ sĩ quan hay binh sĩ về đến thành phố rồi không trở lại đơn vị nữa....

Động cơ bị nổ khi đang bay


Trưa 29 Tết 1974, phòng kiểm soát bảo trì báo một trực thăng ở Bình Tuy đèn báo chip-detector sáng, tôi và một vài chuyên viên thuộc ngành liên quan lên đường ngay. Đến nơi, sau khi kiểm tra, phần hư thuộc động cơ, tôi tháo chip-detector plug ra thì thấy mạt kim loại bám khá nhiều, tôi bèn tháo oil filter ra kiểm thì thấy các lớp lưới lọc bị dơ và có nhiều mạt kim loại bám. Tôi làm sạch và yêu cầu pilot quay máy, sau mươi phút thấy đèn ‘master caution’ không sáng, dĩ nhiên đèn chip-detector cũng ở vị trí ‘off’, tôi yên tâm ghi công việc đã làm vào ‘form’, đồng thời đề nghị bay về đơn vị để kiểm tra lại chứ không tiếp tục hành quân.

Theo thói quen, tôi luôn luôn đi theo chiếc nào mà mình sửa chữa, vì hai lý do: thứ nhất để ghi nhận trực tiếp kết quả của việc sửa chữa, hầu có thêm kinh nghiệm cho những lần sau; thứ đến là vấn đề tâm lý đối với anh em pilot, sẽ thấy an tâm phần nào vì chuyên viên tự tin vào khả năng của mình khi cùng đi theo chiếc do mình sửa chữa. Thực tế, ở Lai Khê đã có một lần pilot không chịu bay, vì nghe một anh kỹ thuật vô tình thốt ra câu nói đại ý là không dám đi chiếc này sợ không an toàn mà leo lên chiếc khác. Phản ứng của pilot là rất đúng, máy bay chứ có phải xe hơi đâu. Chuyên viên kỹ thuật mà không nắm vững tình trạng hư hỏng, sửa chữa mà không tự tin vào tay nghề, mình biết lo cho sự an toàn bản thân, chả lẽ pilot không biết giữ sự an toàn cho họ hay sao?

Trong bất kỳ một ngành nghề nào cũng có những sự việc xảy ra ngoài ý muốn, do khách quan mà đôi khi cũng có phần do chủ quan, đó là điều đã xảy đến với tôi trong câu chuyện đang kể. Chiếc trực thăng nói trên, trên đường bay từ Bình Tuy về Biên Hòa, tôi ngồi ngay sau ghế pilot để theo dõi bảng phi kế, trên máy bay chỉ có 5 người, tôi và phi hành đoàn (4 người), sau khoảng 20 phút bay bình thường, máy bay rung động và nghe tiếng nổ lụp bụp, nhìn thấy đèn master caution sáng lên, và trên những ô của bảng báo, tôi thấy ô chip-detector sáng lên, vài phút sau thì pilot lái chiếc trực thăng khác bay phía sau cho biết exhaust ra lửa, thoáng nhận ra vấn đề, tôi lo lắng nói với pilot tìm chỗ đáp, khi hạ cần collective thì máy bay đỡ rung, nhưng thật không may, qua liên lạc mới biết ở dưới đang có trận giao tranh giữa bộ binh và vc, pilot của chiếc bay phía sau nhắc nhở phải cố bay tiếp, lúc này máy bay càng rung dữ dội, và những tiếng nổ càng nhiều hơn, pilot đành phải giảm độ cao cố gắng bay thêm một khoảng và cuối cùng phải đáp khẩn cấp tại Trảng Bom trên một khu trồng khoai mì. Cú đáp mạnh (forced landing) làm tôi bị va đập vào ghế pilot rồi không còn biết gì, khi tỉnh lại mới biết mình đang nằm tại bệnh xá của Sư đoàn, và lúc này khoảng 6 giờ chiều 29 Tết nên bệnh xá vắng vẻ. Tết năm đó tôi đón giao thừa trong bệnh xá, và chiều mồng 1 Tết, được tin tôi bị tai nạn, người nhà từ Sài Gòn lên thăm, tôi thấy trong người khỏe nên xin y tá trực cho theo người nhà về Sài Gòn. Mồng 3 tết tôi trở lại đơn vị, bạn bè mừng cho tôi đã may mắn không bị tai nạn đồng thời cũng cho biết thêm về chuyện xảy ra hôm đó: Khi thấy máy bay rung mạnh và lửa càng ra nhiều ở exhaust, pilot buộc phải đáp khẩn cấp, ngay khi ấy chiếc bay sau cũng đáp sát bên và phi hành đoàn của chiếc bị hư nhanh chóng chuyển qua chiếc kia, riêng tôi và một anh xạ thủ được anh em đỡ qua, nghe nói anh ta bị văng khỏi máy bay và bị gãy chân.

Sự việc xảy ra suýt gây tai họa lớn trên đây là do một hư hỏng của động cơ, mà tôi có phần trách nhiệm vì chủ quan. Trong các loại động cơ phản lực hay bán phản lực nói chung, đều có một chuyển động theo trục, trục được nâng bởi các bạc đạn, và các bánh xe răng chuyền lực. Tất cả được bôi trơn bằng một loại dầu nhớt (Mil-L-23699 hay 7808) theo đường dẫn từ một thùng chứa, trực thăng thì thùng chứa gắn ở thân máy bay phía bên phải động cơ (nhìn từ sau tới), cách khoảng 50cm, sau khi bôi trơn toàn bộ các bạc đạn và các bánh xe răng, dầu được vét trở về theo một đường dẫn qua bộ lọc dầu (oil filter), rồi chảy qua chip detector, đó là một nam châm điện, khi có mạt kim loại, sẽ dính lại và nối dòng diện làm cho đèn trên bảng phi kế báo sáng. Thường thì sau 24 giờ bay, khi làm hậu phi sẽ tháo chip detector plug ra rửa sạch, hoặc khi có đèn báo nếu thấy một hai mạt kim loại bám vào cũng chỉ rửa sạch, sau đó quay máy nếu đèn không báo thì xem như bình thường, normal). Nếu thấy nhiều mạt kim loại thì phải lấy mẫu nhớt đem thử để xem đó là thứ kim loại nào, từ kết quả đó sẽ biết cơ phận nào bị bào mòn, bạc đạn hay bánh xe răng bị nứt.... Chiếc trực thăng trên, khi tháo chip detector ra, tôi thấy nhiều mạt kim loại, và oil filter cũng rất nhiều mạt bám đầy tất cả các tầng lưới lọc. Bình thường thì phải lấy mẫu nhớt đem thử, nhưng vì ở ngoài đơn vị, lại là xế chiều ngày 29 Tết, mọi người cũng muốn về đơn vị chứ không muốn ở lâu nơi vắng vẻ và mất an ninh này, và khi quay máy một hồi lâu, không thấy dấu hiệu bất thường nên tôi mới có quyết định xin bay về và trên đường về đã xảy ra biến cố trên.

Tôi nhớ không nhầm thì động cơ của chiếc trực thăng ấy bị hư ở phần turbine power, bạc đạn số 3 hay số 4 bị nứt, khiến trục bị lệch khó chuyển động, xăng vẫn tiếp tục phun, gây ra tiếng nổ và lửa thoát ra ở exhaust. Tình trạng nếu kéo dài, bạc đạn sẽ bể, động cơ sẽ nổ tung. Cuối cùng chiếc trực thăng này đã được CH-47 câu về đơn vị để thay động cơ.

Thoát khỏi tai nạn là điều vui mừng, nhưng tôi thấy ân hận vì sự chủ quan của mình, từ sau biến cố ấy, tôi luôn thận trọng và cân nhắc rất kỹ khi gặp những trường hợp cảm thấy hơi bất thường. Thật ra trong kinh nghiệm sửa chữa, trực thăng về phần động cơ chỉ bị những pan thông thường như low torque, RPM tăng giảm bất thường, oil temperature high, fuel hoặc oil leak, EGT high (normal: 580-600°C) v.v. Rất hiếm khi bị FOD, nếu có chỉ bị nhẹ ở tầng thứ nhất của compressor, chỉ cần một cây dũa được nối dài, dũa nhẹ những vết mẻ. Nếu bị mẻ nhiều và lớn thì phải tháo phần vỏ bọc để thay những blade compressor bị mẻ.

Những chiếc trực thăng có ma?


Đọc mấy mẩu chuyện “ma” của tác giả Nguyễn Hiếu đăng trong diễn đàn Phi Dũng khiến tôi nhớ lại một vài hiện tượng xảy ra thời gian tôi làm ở các phi đạo 221, 223, 231 và 245, Biên Hòa. Bản thân tôi ít tin chuyện ma chuyện quỷ, điều đó không có nghĩa là tôi không tin có ma, và càng không thể không tin có quỷ. Ma hay quỷ là những thực tại vô hình hiện hữu quanh ta. Từ những kiến thức phổ thông trong dân gian cho đến những giáo thuyết của các tôn giáo, có những giải thích và minh họa cho vấn đề ma quỷ, và cũng từ đó phát sinh nhiều câu chuyện ly kỳ mà không thiếu những trường hợp do sự căng thẳng thần kinh tạo ra. Giáo Lý Công Giáo không chủ trương “kính quỷ thần nhi viễn chi”, (từ “quỷ thần” trong câu này không có nghĩa xấu), nhưng cũng không bao giờ gán cho ma quỷ một quyền năng vô biên. Ma quỷ chỉ là một thụ tạo bị sa đọa biến chất, vì Thiên Chúa không dựng nên sự dữ, sự xấu. Mọi thụ tạo đều ở trong sự tốt lành nguyên thủy, lợi dụng sự tự do, một số thụ tạo đã chối từ Thiên Chúa, phản bội và chống lại Thiên Chúa. Những thụ tạo này chính là ma quỷ. Tóm lại, có ma quỷ hiện hữu quanh ta, còn ma quỷ hành động ra sao, hình dáng thế nào không ai biết được. Tôi đọc và nghe kể chuyện ma rất nhiều, nhưng thật khó mà kiểm chứng xem người viết hay kể có cường điệu hóa hay không?

Thời gian làm tại phi đạo trực thăng, tôi nghe nhiều chuyện ma, nhưng chỉ nghe cho vui chứ không để tâm đến, vì thế tôi chẳng hề e ngại mỗi khi nghe báo máy bay nào bị hư, nếu đó là hư hỏng nhẹ, thì dù 12 giờ đêm, tôi vẫn xách túi dụng cụ ra phi đạo, tìm đến ụ máy bay đó mà sửa, và chỉ cần dùng đèn pin, khi cần lắm mới gọi “vật cụ yểm trợ” kéo footlight. Thường thì anh em đi 2 người, nhưng rất nhiều lần chỉ mình tôi. Phi đạo trực thăng rất tối, tuy ở hai đầu phi đạo có để 2 footlights, nhưng không đủ sáng; phi đạo 223 còn lót bằng vỉ sắt, đi lại gây những tiếng động như thể có người đi phía sau. Những đêm trời mưa rả rích, phi đạo dài hun hút, không bóng người, chỉ thấy những chiếc trực thăng như những bóng đen đậu từng hàng trong các ụ, tiếng chân đi hòa với tiếng côn trùng làm cho khung cảnh buồn chán, người yếu bóng vía chả dám đi một mình. Nhưng vì bổn phận và lòng yêu nghề tôi cứ phải cố gắng vượt qua. Xưởng động cơ phụ trách cả 4 phi đạo, nên xảy ra là có những nhầm lẫn khi nghe phòng “kiểm soát bảo trì” báo số và vị trí chiếc máy bay bị hư; một là báo nhầm, hai là nghe nhầm, khiến cho việc tìm bị khó khăn, nhiều anh em tìm mãi không thấy đã văng ra đủ thứ khẩu ngữ khó nghe. Có những chiếc trùng số của phi đạo khác, tôi còn nhớ cả 2 phi đạo 221 và 231 đều có chiếc mang số 431, chiếc mang số 080 cũng vậy.... Câu chuyện tôi muốn kể là thế này (mỗi lần nhắc lại tôi vẫn còn nhớ được những cảm giác lúc xảy ra sự việc ấy).

Hôm ấy, phòng “kiểm soát bảo trì” báo trực thăng số 830, thuộc phi đạo 221, bị chảy dầu (oil leak) ở starter generator, lúc ấy khoảng 11 giờ khuya. Đây là một chiếc gunship (có gắn rocket và đại liên 6 nòng). Tôi và một người bạn xách túi dụng cụ và những vật liệu cần thiết ra chiếc máy bay này. Chúng tôi sửa khoảng 40 phút, sau đó thay vì báo cho phòng Ksbt gọi test pilot ra quay máy, nhưng thấy gần 12 giờ đêm, chờ pilot ra thì lâu nên tôi bảo người bạn mở main rotor kéo nằm ngang, còn tôi lên phòng lái ngồi vào ghế pilot, tôi vẫn nhìn thấy anh bạn đứng xa máy bay khoảng hơn 10 mét. Ghế ở vị trí xa nên tôi phải nhích lên cho vừa tầm chân giữ pedal, mọi sự chuẩn bị an toàn tôi giơ tay trái lên mở công tắc battery nằm ở bảng công tắc ngay trên đầu, nhưng ngón tay mới chạm vào công tắc thì như có ai kéo khuỷu tay tôi xuống đồng thời cái ghế tôi ngồi cũng bị trượt về phía sau làm hai bàn chân tôi rời khỏi pedal, tôi gắt lên: “Đừng có giỡn nhe!” vì tưởng có người đùa giỡn tôi, nhưng quay lại không thấy ai, anh bạn cùng làm vẫn đứng xa, còn hỏi tôi sao không quay máy. Tôi chẳng nghĩ ngợi gì cả, lại kéo ghế trở về vị trí cũ và giơ tay bật công tắc battery – ON, rồi mở công tắc xăng (start fuel – ON) không có gì xảy ra, nhưng khi tay trái vừa nắm collective pitch, throttle friction, chưa kịp bấm nút start thì ghế lại bị kéo về phía sau và lần này cả người tôi còn bị ghì vào ghế. Quay đầu lại không có ai cả. Đến lúc này tôi mới cảm thấy rợn người, vội vàng rời khỏi ghế pilot nhảy luôn xuống đất, cúi xuống gầm máy bay cũng không thấy gì, anh bạn cùng đi hỏi chuyện gì vậy, tôi mới nói chắc là có ma? Nghe vậy anh ta bỏ chạy luôn. Giữa cảnh hoang vắng của đêm tối tôi cũng thấy rờn rợn nên cũng đi nhanh trở về xưởng. Trong số anh em cùng toán trực, tôi là người tương đối dạn, nay gặp trường hợp này khiến ai cũng sợ, nhưng không thể để máy bay trong tình trạng main rotor chưa cột lại, battery và fuel switch – ON, lỡ xảy ra hư hại gì thì bị nhốt cả lũ, nên ba bốn anh em đành phải trở ra, tôi cũng hồi hộp nhưng vì có thêm người và không còn cách nào khác đành phải lên máy bay, lần này tôi bật đèn sáng cả khoang máy bay, và quay máy. Trong tâm trạng còn hơi sợ, tôi không dám tăng ga, nhìn đồng hồ RPM tôi chỉ để ở 4200, chứ không dám tăng đến 6600 như thường làm. Sau khoảng 10 phút mà thấy lâu như cả giờ, tôi shutdown, vẫn tỉnh táo bấm nút Idle. Kiểm tra starter không còn chảy dầu, tôi ghi vào FORM công việc đã làm và tình trạng máy bay tốt.

Tôi không sao lý giải được hiện tượng này, cái ghế của pilot là những tấm thép dày để chống đạn, rất nặng, gắn trên hai đường rầy có thể trượt tới trượt lui, hoặc lên xuống tùy theo chiều cao của pilot, nhưng muốn di chuyển phải nhấc cần gạt lên mở chốt khóa, mới di chuyển cả khối thép và người. Khi buông cần gạt ra chốt sẽ tự khóa lại, ghế sẽ luôn được giữ ở vị trí cố định phù hợp với người ngồi. Tôi đã quá quen thuộc cách sử dụng không thể có sơ xuất, vả lại hai lần bị kéo lại. Sau này, khi nghe tôi kể lại chuyện này, anh em làm ngoài phi đạo nói có mấy chiếc trực thăng có ma, chiếc mang số 830 là trong số đó, tôi cũng không hỏi thêm gì, tuy nhiên mỗi lần gặp lại chiếc này, tôi cũng hơi ớn, nhưng sự kiện trên cũng chỉ xảy ra với tôi có lần đó thôi.

Một chuyện khác xảy ra ít lâu sau đó với một chiếc trực thăng khác. Cũng vào buổi tối khoảng hơn 21 giờ, nhưng phi đạo vắng và tối. Phòng Kiểm soát bảo trì báo chiếc này bị EGT cao (temperature normal: 580°C). Tôi biết phải làm gì, khi ra đến nơi, sau khi mở “cover” động cơ, tôi leo lên mui tháo mấy miếng lọc gió bao quanh short shaft, rọi đèn pin vào khoảng trống của khung khí nhập (air inlet section) và cúi mình nhìn vào để kiểm tra những cánh quạt nén của tầng thứ nhất, thấy một vài cánh bị mẻ, tôi đưa cây dũa được nối với một ống nhôm dài khoảng 50cm để dũa cho phẳng. Những chỗ mẻ, nếu không mài nhẵn sẽ có thể bị phá ra vì khi động cơ hoạt động quạt nén đạt tới vận tốc 6600 RPM, và những mảnh tuy nhỏ đứt ra từ chỗ mẻ có thể gây FOD, phá những tầng compressor kế tiếp. Tôi khom người ở tư thế qùy, bỗng nhiên một chân của tôi bị kéo trượt về phía sau, theo phản ứng tự nhiên, tôi vươn tay bám vào thanh dọc gắn với stabilizer bar của main rotor. Tôi cũng hơi sờ sợ nghĩ đến chuyện lần trước, nhưng lúc đó có một xe tractor kéo footlight từ xa đang chạy tới ánh đèn rọi sáng, nên tôi lợi dụng thời gian này để làm tốt công việc của mình, tôi vội vàng đóng lại những tấm lưới lọc gió và kiểm lại dụng cụ rồi nhảy xuống đóng vội cover động cơ rồi nhanh chóng trở về xưởng. Kể lại cho anh em nghe, có người bảo là chắc tại tôi bị trượt chân. Tôi nói lúc ấy trời không mưa, mui trực thăng có những khoảng như chỗ tôi đứng, được cấu tạo như vỏ quả mít, một vài chỗ còn dán những miếng nhám chống trượt và tôi cũng thường xuyên làm công việc này, vả lại trượt hay không thì chính tôi phải phân biệt được.

Trong thời gian làm tại các phi đạo trực thăng, tôi chỉ gặp hiện tượng lạ thường hai lần đó và đều xảy ra vào giờ khuya vắng vẻ. Nhưng dù có sợ thì cũng vẫn phải chu toàn bổn phận. Cuối năm 1974 khi về Phi Đạo 821 AC-119K, tôi cũng có nghe kể mấy câu chuyện ma ở phi đạo, như chuyện có những lần xe bồn đi đổ xăng đang chạy thì thấy một anh lính đứng ngay cửa máy bay giơ tay vẫy, tài xế quay xe đậu ngay dưới cánh nhưng chờ mãi không thấy ai kéo vòi xăng lên đổ, gọi không ai thưa, anh ta leo lên máy bay thì không thấy ai. Sau này mới biết không phải chỉ có anh tài xế xe bồn này gặp ma, mà mấy bác tài khác cũng gặp rồi. Cũng có những anh gác phi đạo leo lên máy bay ngủ bị giấu súng (carbine M2). Nhưng đó chỉ là những chuyện được nghe kể lại mà không có điều kiện kiểm chứng.... Còn tôi rất thường ngủ ngoài phi đạo, cũng như những lần đi công tác Đà Nẵng cả nửa tháng, nhiều đêm ngủ một mình ngay bãi đậu 4 chiếc AC-119K, vì phi hành đoàn bay đêm xong trở về khu riêng, còn anh em kỹ thuật khác ra phố, nhưng tôi chẳng gặp chuyện gì... chỉ cảm thấy buồn vì những đêm mưa rả rích của trời Đà Nẵng.

Những chuyện “may hơn khôn” trong nghề nghiệp


Trong đời sống hằng ngày, gặp phải vấn đề khó khăn, thì không nên quá nguyên tắc, chỉ dựa trên lý thuyết mà không nghĩ đến những trường hợp ngoại lệ. Chỉ khi không bị chi phối quá bởi nguyên tắc và lý thuyết, với kinh nghiệm sẽ giúp người ta tìm ra được những cách giải quyết cách hữu hiệu, không nên coi thường một chi tiết nhỏ nào. Bài học này tôi học được từ một trường hợp khá hy hữu.

Khoảng đầu năm 1974, một chiếc trực thăng của Phủ Tổng Thống, do toán sửa chữa thuộc Sư đoàn 5 Không Quân (TSN), không biết tình trạng trước đó ra sao mà phải thay động cơ mới, sau khi thay bay thử thấy đồng hồ EGT tăng lên tới 620 – 630°C. Quay máy dưới đất thì tốt. Toán kỹ thuật này sửa nhiều lần vẫn không được, cuối cùng đã bay lên Biên Hòa giao cho xưởng Động Cơ, chúng tôi cũng chỉ làm theo những gì đã làm cho những trường hợp này. Qua 2 ngày cũng chẳng có kết quả tốt. Mọi người cũng bắt đầu nản, và pilot trực tiếp sử dụng chiếc trực thăng này cũng không kiên nhẫn được (tôi còn nhớ được tên ông là Hiệp, cấp bậc trung tá), ông bắt đầu phàn nàn. Buổi trưa hôm ấy, dù anh em nói đừng phí công nữa, để cho họ bay về TSN thay lại động cơ khác, tôi vẫn cứ ra thử lần chót. Tôi kiên nhẫn kiểm tra hết các ống dẫn xăng dầu, ống nào tôi cũng lắc thử và xiết lại. Buổi trưa nắng nên cũng làm tôi hơi bực mình, kiểm một hồi cũng chẳng tìm ra nguyên do. Tôi cầm cây tua-vít gạt tới gạt lui mấy ống dẫn trên động cơ, thật kỳ lạ, cây tua-vít như cây đũa thần làm cho một đường ống dẫn hơi từ khoang khuếch tán (diffuser housing) dẫn vào van xả gió bị sút ra.Sau một lúc suy nghĩ tôi đã hiểu ra nguyên do đưa đến tình trạng đồng hồ EGT tăng cao mỗi khi cất cánh, quay máy dưới đất thì tốt (580°C). Khi thay động cơ mới, anh em kỹ thuật không nghĩ rằng đầu ống gắn vào union nằm ở vị trí 3 giờ trên khoang khuếch tán chưa được xiết chặt, khi quay máy và bay thử, độ rung làm đầu ống dẫn tự mở ra, hơi từ khoang khuếch tán thoát ra, bộ tác động vành xả gió không thể hoạt động bình thường dẫn đến tình trạng EGT lên cao khi cất cánh. Khi shut-down engine, đầu ống lại chụp vào union, nhìn tưởng ống vẫn gắn vào union.

Sau khi gắn lại chắc chắn, tôi thuyết phục test pilot bay thử và cam đoan lần này không tốt thì sẽ đề nghị thay động cơ mới. Máy bay rời ụ cất cánh lên cao, tôi hồi hộp theo dõi đồng hồ EGT, kim chỉ nhích lên một chút và dừng lại ở 590°C. Bay một vòng quanh núi Châu Thới và xung quanh thành phố Biên Hòa khoảng 20 phút rồi đáp. Tôi mạnh dạn ghi vào form: “tình trạng tốt, EGT normal” và rất mừng vì đã không làm mất mặt xưởng động cơ UH-1 của chúng tôi, dù đó chỉ là “may hơn khôn” trong công việc của anh em kỹ thuật chúng tôi. Những chuyện may mắn trong nghề nghiệp không hiếm. Tôi nhớ lại một trường hợp khá hy hữu, có một chiếc trực thăng bị trúng đạn khi đang bay hành quân ở vùng Long An, nhưng chỉ khi trúng đạn, tàu bị rung nhẹ một chút rồi không còn hiện tượng bất thường nào, vẫn hoạt động bình thường. Tuy nhiên phi công cũng cẩn thận bay tới gần cầu Bến Lức và đáp xuống trên khoảng trống gần quốc lộ. Sau khi phi hành đoàn kiểm tra toàn bộ thân tàu, mở cả cover động cơ ra kiểm, không có ống xăng ống dầu nào bị bể, nhưng khi pilot quay máy, thì không được. Chúng tôi được báo và bay ngay đến nơi máy bay đáp. Cả 3 ngành liên quan đã kiểm tra phần của mình: động cơ, hệ thống xăng, hệ thống điện. Loay hoay cả nửa ngày mà không sao sửa được. Mãi gần 4 giờ chiều, trong lúc mọi người đều mệt mỏi muốn gọi về đơn vị xin chỉ thị thì một anh chàng trốn nắng ngồi dưới tailboom bỗng la lớn khi nhìn thấy một lỗ đạn. Rọi đèn pin vào mới thấy viên đạn xuyên qua vỏ bọc thân máy bay, làm đứt một số dây điện, trong đó có đường dẫn lên cuộn đánh lửa (ignition coil) của động cơ, khiến động cơ không thể khởi động. Hệ thống đánh lửa gồm 4 ignition plug với 4 vòi phun xăng chỉ hoạt động lúc khởi động, khi compressor đạt đến 42% thì ngưng, lửa trong phòng đốt vẫn cháy và lúc này 22 vòi phun xăng gắn nơi phòng đốt bắt đầu phun để tiếp tục đốt tạo ra lực đẩy. Nên nếu tắt máy sẽ không thể khởi động lại. Sau khi anh em điện khí nối lại những giây bị đứt, pilot lên quay máy được ngay và cả hai chiếc cùng bay về Biên Hòa. Quả là may hơn khôn.

Với khoa học tân tiến ngày nay, những kiến thức của những chuyên viên kỹ thuật thời chúng tôi chắc hẳn đã quá lỗi thời, kể lại những gì còn lại trong ký ức để nhớ lại thời xa xưa chỉ để góp vui với nhau và cũng cho con cháu biết rằng cha ông mình đã có một thời phục vụ đất nước bằng tất cả con tim và khối óc, mỗi người một công việc trong vị trí của mình. Bản thân tôi lúc nào cũng thấy vui thích trong công việc, không bận tâm đến chức vụ hay cấp bậc, đối với cấp trên chẳng bao giờ tôi khúm núm, lấy điểm. Tôi luôn coi trọng những vị có tư cách đạo đức, có cách đối xử nhân bản với anh em, những cấp bậc chỉ nói lên quyền hạn và trách nhiệm, chứ không phản ảnh toàn diện nhân cách. Đối với anh em cùng xưởng luôn thân thiện hòa đồng, vì thế cuộc sống trở nên nhẹ nhàng. Có thể nói thời gian trong Không Quân là quãng đời vui nhất thời còn thanh niên của tôi. Môi trường của xã hội thời đó tuy không phải là hoàn hảo, cũng có nhiều cái xấu và sự bất công, nhưng chỉ trong một mức độ nào thôi. Là lính hay là dân, con người được tôn trọng, có điều kiện để phát triển và thăng tiến mọi mặt về nhân bản, về kiến thức và đạo đức.

Chúng mình già hết rồi, nhưng phải làm sao truyền cho con cháu mình, những thế hệ mai sau những gì là tốt đẹp, là đúng đắn, để chúng sống sao cho đúng đạo làm người, biết tôn trọng và noi gương những bậc thời xưa như Lê Lợi, như Trần Hưng Đạo, Quang Trung, là những anh hùng có thực trong lịch sử. Chỉ mong con cháu mình không bị lây nhiễm những sự gian tà giả dối, để cuộc đời của chúng được tươi sáng hạnh phúc.

Tôi xin được kết thúc loạt bài ghi lại những kỷ niệm trong đời kỹ thuật trực thăng UH-1 ngành động cơ bằng bài ca bất hủ, đó là bài “Không Quân hành khúc” của nhạc sĩ Văn Cao:
Giờ đoàn người từng vượt qua biên giới đã chiến đấu,đã chiếm chiến công ngang trời.
Giờ từng đoàn người vượt qua biên giới quyết chiến đấu, đi không ai tìm xác rơi.
Lúc đất nước muốn bao người con thân yêu ra đi, hối tiếc tấm thân làm chi.
Giờ thề một lòng vượt trên lưng gió quyết chiến thắng, nhớ lấy phút giây từ ly.

Ta là đàn chim bay trên cao xanh
Khi nhìn qua khói những kinh thành xa.
Ðôi cánh tung hoành vượt trên mây xanh
Ta là tinh cầu bay trong đêm trăng.
Ðây đó hồn nước ơi!
Không quân Việt Nam vút trên ngàn mây gió
U... u... u... u... u... u ...
Ôi phi công danh tiếng muôn đời.
Nhìn xa phi trường Việt Nam, Không quân ra đi cánh bay rợp trời
U... u... u... u... u... u ...
Xa giang sơn ngắm nhìn về khắp nơi

Đàn chim dù bay nghìn phương cũng về
Để rồi ngày ngày sống hòa nhịp đời cùng ngàn kiếp chim.
Bầy ta càng đi càng xa quyết khi về đem lại đây
Chiến công dù thân mồ quên lấp chìm.
Bài ca không hề có một câu một chữ nhắc đến ngành kỹ thuật, nhưng tất cả những công việc sửa chữa âm thầm lặng lẽ, đã được gói ghém trong những phi vụ chiến đấu oanh liệt đó. Mỗi lần nhìn chiếc máy bay cất cánh lao vào không gian, mang theo những con người với những sứ mệnh, anh em kỹ thuật cũng thầm mong cho những chuyến bay đó tạo được chiến công và bình an trở về. Mỗi lần thay một cơ phận hay chỉnh sửa những trục trặc hỏng hóc trong máy, chúng tôi đều phải cân nhắc và thận trọng từng thao tác và mỗi khi ký vào form là chúng tôi mặc nhiên chịu trách nhiệm về sự an toàn của chiếc máy bay. Có cảm nhận được những niềm vui âm thầm ấy, anh em kỹ thuật mới có tinh thần làm việc không mệt mỏi.

Đó là một số những kỷ niệm trong cuộc đời binh nghiệp ngắn ngủi của tôi với công việc mà tôi yêu mến. Khi viết bài này, tôi không mang tâm trạng của một người luyến tiếc quá khứ, cũng không coi đấy là điều to tát. Tôi chỉ muốn nhìn lại một quãng đời khá thú vị với những buồn vui bằng một cái nhìn đức tin, Chúa đưa tôi đi một con đường rất thường, chẳng tạo nên một công danh sự nghiệp gì, nhưng tôi hằng cám ơn Chúa, vì mọi bước tôi đi, cả những bước chân tội lỗi, Chúa vẫn lôi tôi đi với tất cả việc tốt việc xấu, việc đúng việc sai mà tôi làm. Suốt hơn 30 năm nay tôi cũng miệt mài với một niềm vui khác là cố gắng trau dồi kiến thức tâm linh, ngoài việc bổn phận gia đình phải chu toàn của người chồng, người cha, tôi dành nhiều thời gian để học hỏi giáo lý, thần học, Kinh Thánh với mong muốn cho đức tin của mình có một nền tảng, để từ đó có thể giúp cho người khác hiểu và tin Chúa qua những lớp dạy giáo lý cho dự tòng và người lớn. Vì cuộc đời con người chỉ có ý nghĩa và đạt đến toàn vẹn khi tin vào Chúa mà thôi. Đó là niềm vui của tôi giữa bao thăng trầm của cuộc sống hôm nay.

Sài Gòn ngày 14-4-2013
Nguyễn Tuấn Hoan (Mai Tuấn)
prhoanal@yahoo.com.vn

Tôi lục lọi trong tủ sách, còn lại cuốn tập ghi những bài học về lý thuyết bảo trì trực thăng tại Trường Kỹ Thuật Động Cơ Phản Lực, Khóa I/1970. Đây là một kỷ vật duy nhất còn sót lại của nghề sửa trực thăng. Bấy lâu nay tôi hầu như đã quên, nay tìm lại được tôi xem nó như một người bạn tri kỷ, đây là vài trang trong cuốn tập ấy:


Mỗi khi sửa chữa hay bảo trì một động cơ, chuyên viên phải ghi chép đầy đủ vào một mẫu – form tất cả quá trình làm việc. Đây là một form 349 mà tôi còn giữ lại khi thực tập.


...và cuối năm 1974 tôi được thuyên chuyển về Sư Đoàn 5 Không Quân, làm tại Phi đạo 821 với những động cơ phản lực J-85 gắn trên những chiếc AC-119K. Chưa quen lắm với công việc mới này thì tình thế đổi thay. Hoang mang trước chọn lựa ra đi hay ở lại và cuối cùng tôi đã rời khỏi Tân Sơn Nhất sáng 29-4-1975 với tâm trạng buồn rầu thất vọng và lo âu. Rồi trải qua gần 40 năm, những kỷ niệm ấy vẫn không thể quên trong ký ức tôi từ con người đến sự vật....


AC-119K là loại máy bay có hiệu quả rất phi thường trong chiến cuộc miền Nam. Ngoài 2 động cơ cánh quạt, nó được gắn thêm 2 động cơ phản lực J-85. Tôi thật bàng hoàng khi nghe tin chiếc ACK bị bắn rơi sáng 29-4, lúc ấy tôi vẫn còn trong phi đạo 821. Đó là phi vụ cuối cùng của KQVNCH và mới đây khi đọc được bài tường thuật về phi vụ tang thương này, tôi cũng vô cùng khâm phục lòng quả cảm của phi hành đoàn đã chết anh dũng như vậy.