Sunday, August 31, 2014

Gió O phỏng vấn nhà văn Văn Quang

Xin đăng lại bài phỏng vấn này để chia sẻ với các bạn 7/68KQ
Nguồn: http://www.gio-o.com


nhà văn Văn Quang qua nét vẽ của hoạ sĩ Đinh Cường


phỏng vấn
nhà văn
Văn Quang



Nhà văn Văn Quang sinh năm 1933 tại Thái Bình.

Tốt nghiệp Khóa 4 Sĩ Quan trừ bị Thủ Đức, sau đó phục vụ trong ngành Tâm Lý Chiến. Đã một thời làm Quản Đốc Đài phát thanh Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà. Cấp bậc Trung Tá.

Tác phẩm đã xuất bản: Ngàn Năm Mây Bay, Những Tâm Hồn Nổi Loạn, Nét Môi Cuồng Vọng, Đời Chưa Trang Điểm, Tiếng Gọi Của Đêm Tối, Tiếng Hát Học Trò, Vì Sao Cô Độc, Người Yêu Của Lính. Các tác phẩm Nguyệṭ Áo Đỏ (1963), Chân Trời Tím (1964) được Liên Ảnh quay thành phim, tạo nên tên tuổi nhà văn ở Miền Nam thời bấy giờ.

Sau tháng 4 năm 1975, ông trải qua nhiều năm tù ở K 5 Vĩnh Phú và K 2 thuộc Z 30 tại Hàm Tân.  Ra khỏi tù Văn Quang không tị nạn sang Hoa Kỳ theo diện HO như hầu hết các tù nhân chính trị khác. Năm 2002, ông rời bỏ Sài Gòn và dọn lên Lộc Ninh sinh sống. Ở đấy hàng tuần, Văn Quang cho ra loạt ký sự "Lẩm Cẩm Saigòn Thiên Hạ Sự", và chỉ gửi ra cho các báo Việt Nam ở hải ngoại. Loạt bài này rất được độc giả hải ngoại ưu ái đón nhận.



Lê Thị Huệ:   Ông có thể mô tả cho độc giả gio-o nghe về nơi chốn ông đang làm việc. Có máy computer, có internet, có cây xanh đất đỏ mùi quê, cảm xúc cô độc và không cô độc ? 

Văn Quang: Trước khi quyết định chọn một nơi nào đó làm chỗ sinh sống, chắc chắn người nào cũng phải cân nhắc xem nơi đó có những điều kiện gì, có thích hợp với cuộc sống và công việc của mình không. Tôi cũng phải làm như thế. Khi tôi đến Lộc Ninh, được dẫn vào một khu nhà vườn cách thị trấn 3 cây số, ở đây đã có điện, nước, có đường truyền internet rồi. Đó là 3 điều kiện đáp ứng được nhu cầu của tôi. Thứ đến là điều kiện an ninh như thế nào. Sau cùng là khung cảnh yên tĩnh, bởi nơi này một nửa là  thôn ấp, một nửa là vùng đồi núi. Song, tất cả lại phải tùy thuộc vào giá cả. Vậy nên nó trở thành yếu tố quan trọng hàng đầu. Tôi đã đi xem đất ở một số thị trấn như Long Khánh, Chơn Thành… cuối cùng kết luận là không nơi nào có giá đất vườn rẻ hơn Lộc Ninh.

Ở ngay thị trấn LN, giá đất khá cao, tôi lui vào xã Lộc Thái, một nơi “nhà không số, phố không tên”. Tuy nhiên đã có sẵn con đường làng, trải nhựa, dẫn vào tận nhà, có đèn đường, có điện, xài nước giếng khoan. Đường truyền internet hồi đó là dial up chạy tành tạch, chậm, nhưng vẫn có thể làm việc được. Cách đây một năm mới có đường dây ADSL khá nhanh, nhưng có lẽ chỉ mắc đến xã của tôi ở là xa nhất so với khu trung tâm thị trấn.

Căn nhà vườn này của người chủ cũ, trồng tiêu lâu ngày, nay con cái lớn nên muốn về Sài Gòn cho con đi học. Vả lại trồng tiêu cũng không còn có lời như xưa nữa nên  họ bán lại toàn bộ diện tích nhà vườn với 5.400m2. Trong đó có sẵn một số cây ăn trái, một cái nhà gỗ, dụng cụ làm vườn, bơm nước… Nếu mua có thể ở và khai thác ngay. Giá cả lại rất rẻ. Tất cả 165 triệu đồng VN (10 ngàn USD).

Đến nay, giá đất ở thôn xã này cũng không đắt hơn bao nhiêu. Nhưng theo tôi biết, giá đất vườn ở đây rẻ hơn tất cả những nơi khác. Nếu Gio-O muốn mua, hoặc bất cứ  độc giả nào muốn mua, tôi xin tìm giùm, cam đoan không biết làm “cò”, không mất hoa hồng, tôi chỉ muốn thông báo tin này và muốn có thêm hàng xóm cũng như mình. Tuy nhiên cũng cần nói thêm là nơi này chỉ thích hợp cho những vị muốn “dưỡng già”, muốn tìm một chỗ yên tĩnh, an ninh, thảnh thơi. Hầu như không thể làm ăn buôn bán gì được. Nhưng nhà vườn thì không bao giờ chết đói và cũng chẳng bao giờ giàu được. Cuộc sống thanh đạm, yên bình.

Lộc Ninh là một thị trấn bị bao vây bởi những lô cao sư từ xa xưa, hiện nay chưa phát triển được hoặc không thể phát triển được, nên cũng rất ít tệ nạn xã hội. Không thể nói không có trộm cắp, nhưng rất ít và cũng không có những vụ thanh toán ly kỳ. Hơn 2 năm nay, tôi chưa hề thấy một vụ “trấn lột” giữa đường nào như ở các thị trấn phát triển ồ ạt khác. Cứ 7 giờ tối là con đường trước mặt nhà tôi không còn ai qua lại, không một tiếng xe, không một tiếng người. Khoảng 9 giờ tối là thôn xóm vắng ngắt, mọi nhà tắt đèn ngủ sớm, cứ như khuya khoắt lắm rồi, chỉ có những ngọn đèn đường còn thức với những vườn cây, ao cá um tùm ngút ngàn.

Nghe thì có vẻ như xa lắm, nhưng thật ra Lộc Ninh cách Sài Gòn 123 cây số - vừa bằng đường ra Vũng Tàu. Nếu đường sửa xong, đi xe hơi chỉ mất khoảng 2 giờ. Hiện nay, Quốc lộ 13 đang sửa nên từ Sài Gòn đi, khoảng 3 tiếng là đến nơi.

Có 2 lý do chính tôi chọn Lộc Ninh

Thứ nhất: Ngoài yếu tố tất nhiên là giá đất rất rẻ như tôi đã nói ở trên. Với số tuổi của tôi, không còn thích hợp với đời sống ở thành phố nữa. Cái chung cư tôi ở Sài Gòn, như cái tổ chim, suốt ngày ồn ào, ngột ngạt, ô nhiễm năng nề. Làm việc chừng vài tiếng đã thấy mỏi mệt, rã rời, đầu nhức, mắt hoa. Thuốc nhức đầu, cảm cúm như cơm bữa đối với tôi. Do đó tôi quyết định phải chọn một vùng quê yên tĩnh cho cuối đời. Cái khúc quanh này trong cuộc sống quả là có khó khăn, quyết định thực hiện được với mỗi người không dễ dàng. Song tôi vẫn phải cố gắng vượt qua nó như đã từng vượt qua những khó khăn hơn thế. Lần này thì dễ dàng hơn vì nhà chỉ có 2 người, bàn bạc với nhau là xong. Tôi cũng xin nói thêm là nhờ bạn bè giúp đỡ khá nhiều, con cháu tôi cũng góp phần cho tôi có đủ điều kiện thực hiện ước muốn. “Rách” như ông Hoàng Ngọc Liên hồi đó cũng “khuyến khích” tôi bằng 1000 USD, bố con ông Tạ Quang Khôi, Vũ Đức Vinh, Hà Túc Đạo, Nhất Giang, Vi Túy, Hồ Ông, Lê Thị Kim, Bạch Quyên, Hồng Oanh cũng góp phần không nhỏ cho tôi “về nhà mới”. Hầu như tất cả những tiện nghi trong nhà tôi ở đây đều do bạn bè tặng.

Thứ hai: Tôi vẫn nghĩ: một nhà văn, nhà báo, phải biết “làm mới mình”. Ở thành phố mãi, đề tài quen thuộc sẽ cùn dần. Quay đi quay lại “nó vẫn thế”. Về nhà quê, có lẽ là cách tốt nhất để “làm mới” mình. Nơi này từ năm1972, người dân Lộc Ninh đã sống trong vùng được gọi là “giải phóng”, nói thẳng ra là họ sống trong vùng của miền Bắc kiểm soát nhiều hơn, dưới cái tên “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam”. Bên cạnh đó là chiến trường đẫm máu An Lộc, Bình Long năm 75 và những vùng nghèo khó, giáp ranh biên giới Campuchia… Tôi có thể tìm hiểu được thực chất đời sống cùng tâm tư  của họ. Người dân quê đã mất gì, được gì, từ năm 1975 đến nay? Đích thực họ nghĩ gì, làm gì, hy vọng gì? Những biến chuyển sâu sắc nhất trong từng gia đình như thế nào? Từ đó so sánh với cuộc sống ở những thành phố, từ đó tìm biết được những mảnh đời khác với những gì tôi đã biết. Từ đó cho tôi một cái nhìn sâu hơn, xa hơn, thật hơn, về toàn bộ những gì dân tộc mình qua những triều đại mà tôi đã sống.

Còn nói về sự cô đơn: Phải thú nhận rằng đôi khi cũng cảm thấy thiếu trò giải trí chứ chưa hẳn là cô đơn. Ở đây không có một thú vui nào, không có một phòng trà ca nhạc, không có một tiệm karaoke và cũng chẳng có một quán cà phê có nhiều “bóng hồng chiều chuộng”. Hàng xóm toàn là những ông già, chất phác, chân thật, năm thì mười họa mới sang nhà nhau một lần. Đôi khi gặp nhau trong một đám hiếu hỷ, chuyện trò rôm rả, nhưng toàn là thứ chuyện mình mù tịt. Ngồi im mà học cách họ chăm bón cây ăn trái, mỗi cây có một cách chăm sóc riêng. Muốn có một cây đu đủ đực thì phải làm thế nào. Muốn dừa ngọt thì phải làm gì… Đại khái như thế.

Tuy nhiên, đôi khi lại thấy thích thú vì sự cô đơn ấy. Được “tự do” suy nghĩ cả buổi mà không ai thèm nói với mình câu nào. Và để làm dịu bớt cô đơn, nhớ bạn bè hoặc có bạn bè, con cái từ nước ngoài về thăm, tặng quà cho anh em TPB VNCH thì lại lên xe đò về Sài Gòn một vài ngày, hoặc nếu muốn, có thể sáng đi chiều về cũng chẳng sao. Ở đây có loại xe đưa đón tận nhà, giá chỉ có 50 ngàn đồng VN một lượt. Hoặc ngồi buồn, gọi điện thoại qua internet nói chuyện với các ông bạn ở Mỹ, ở Canada, ở Úc… nhanh như điện thoại di động, rõ và rẻ hơn di động. 60 ngàn đồng VN, nói chuyện được 200 phút. Có khi cả tháng tôi chưa dùng hết một card điện thoại internet. Trong hơn 2 năm qua, bạn bè và con cháu tôi từ nước ngoài về VN, lên chơi Lộc Ninh cũng khá nhiều. Như thế thì không còn cô đơn nữa và luôn quyết định được thời gian của mình.

Tôi nghĩ “quỹ thời gian” của mình cũng chẳng còn nhiều. Một người bạn tôi, anh Nguyễn Đình Toàn, từ Cali về chơi, nói đùa “nhà này chỉ còn thiếu bốn chữ “Văn Quang chi mộ” nữa là hoàn hảo. Tôi nghĩ ngày đó có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Vui vẻ chấp nhận nó với cuộc sống hiện tại.

Lê Thị Huệ:  Tại sao ông lại chọn lối viết "Lẩm Cẩm Sài Gòn Thiên Hạ Sự" . Qua cách viết này, ông viết rất sung sức, rất khoẻ, rất bén nhạy. Tại sao ông không chọn lối sáng tác tiểu thuyết như trước 1975

Văn Quang: Về câu hỏi thứ hai, tôi chọn lối viết “lẩm cẩm Sài Gòn thiên hạ sự” bởi mỗi đề tài, tôi chọn một lối viết khác để độc giả dễ dàng chia sẻ những cảm xúc, những ý tưởng của mình. Trước đây tôi cũng thường viết nhiều loại. Tiểu thuyết, tiểu thuyết phóng sự, phóng sự, truyện ngắn. Tiểu thuyết để diễn tả những đề tài về nội tâm, sâu sắc hơn, về tính thời đại chứ không phải thời sự. Tính thời đại có thể nói về những sự việc, những tâm trạng, những hình ảnh cách đó 5- 10 năm. Nhưng thời sự thì chỉ diễn tả những sự kiện xảy ra gần nhất trong tuần hoặc trong tháng.

“Lẩm cẩm” là một lối viết có tính thời sự. Bởi tính cách “đặc thù” của thời hiện tại nơi tôi đang sống, nên buộc phải viết theo một cách nào đó để không bị gây phiền lụy. Tôi “xông” vào những đề tài xã hội “nóng” nhất, có tính điển hình nhất mà người dân đang chú ý. Một nhu cầu khác nữa là hướng đến độc giả hải ngoại, đang quan tâm tới điều gì? Nói cho rõ hơn, Việt kiều của chúng ta đang muốn biết điều gì đang xảy ra tại quê hương mình. Chắc ai cũng muốn có những thông tin chính xác, không bị vo tròn bóp méo bởi bất cứ lý do nào, đôi khi chỉ là sự “tam sao thất bản” nên thông tin thiếu độ trung thực. Tôi chọn lọc những sự kiện ấy, tìm kiếm thông tin chi tiết và làm thế nào càng chính xác được càng tốt. Nó không phải là một bản tin thuần túy mà đưa vào những nhận định, quan điểm của riêng mình như một lời bàn bạc, nói chuyện với độc giả một cách bình thường chứ không là lý luận. Từ đó bạn đọc có thể hiểu rõ vấn đề hơn và có thể suy luận, nhận định riêng. Do đó, người ở xa quê hương, vẫn có thể biết rõ những sự việc xảy ra tại quê nhà.

Tuy nhiên như chị đã thấy, “lẩm cẩm Sài Gòn” không chỉ là những chuyện lẩm cẩm. Nó có cả những mặt trái, mặt phải của xã hội, chuyện khôi hài và chuyện đau thương, những bản tường trình thẳng thắn vượt qua mọi áp lực. Miễn là chuyện xảy ra có thật. Cái nhìn xoáy về phía sau những sự việc đã và đang xảy ra chứ không phải chỉ có “bề mặt” sự việc, tôi nghĩ đó mới thực sự cần thiết cho bạn đọc ở nước ngoài vốn không có nhiều thì giờ theo dõi.

Tóm lại, “lẩm cẩm Sài Gòn thiên hạ sự”, nếu tổng kết lại, nó sẽ là một bức tranh toàn cảnh của xã hội tôi đang sống. Nó phản ảnh được trung thực mọi vấn đề ở bề mặt đời sống của người dân thuộc đủ mọi tầng lớp xã hội. Từ một anh nông dân “lừa được cả nước” đến một đại gia lương  thiện và bất luơng, từ lớp thanh niên đến các quan chức, từ cô gái tỉnh lẻ đến các cô gái chân dài thành thị. Từ nỗi đau thương cơ cực của “những người bị bỏ quên” như anh em thương phế binh VNCH đến những cảnh trác táng cùng cực, hoang phí vô cùng của lớp người ăn trên ngồi trước… Cái khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, những điều phi lý bất công, những điều cần nói mà người dân không nói được…

Tất nhiên, trong hoàn cảnh của tôi, có những hạn chế mà ai cũng hiểu được. Cho nên viết và “lách” vẫn là điều phải nghĩ tới. Tôi làm cái gì mà luật không cho phép cũng không cấm. Tôi làm với lương tâm của một người cầm bút. Dù ở đây chẳng ai công nhận, tôi vẫn là người cầm bút. Người làm báo có thẻ làm báo, nhưng tôi chẳng có gì ngoài những tìm tòi của mình, tự mình lựa chọn thông tin. Còn những “rủi ro” bao giờ tới và tới lúc nào, đành chấp nhận như một số phận an bài. Nếu cứ nghĩ tới những thứ đó thì chẳng làm được việc gì đáng làm. Tôi không tham gia bất kỳ tổ chức nào, tôi không thích “làm chính trị” như bản tính tôi từ xưa tới nay. Tôi chỉ biết cầm bút, độc lập và hành xử theo tiếng gọi của lương tri.

Mặt khác, tôi cũng không quên viết tiểu thuyết hoặc tiểu thuyết phóng sự. Tiểu thuyết tôi dành cho những đề tài thuộc về tâm tư, tình cảm sâu sắc hơn. Như “chân trời tím” trước những năm 75 và sau khi đi tù cải tạo về, tôi đã hoàn thành “Ngã tư hoàng hôn” vào năm 1990. Đó là một thời kỳ “nửa đóng nửa mở” cánh cửa sắt. Hoặc trước kia, phóng sự tiểu thuyết “những ngày hoa mộng” đăng trên báo Kịch Ảnh, “Sài Gòn tốc” đăng trên nhật báo Chính Luận những năm 60-70. Gần đây nhất là tiểu thuyết phóng sự “Lên đời” về “mặt nổi” những khung cảnh nháo nhác giữa Sài Gòn - Hà Nội của cái cảnh “đổi đời” rất đặc trưng của những nhà “tư sản mới” trong xã hội Việt Nam. Nó được hình thành như thế nào, bắt đầu từ đâu và sự cấu kết “thâm cung bí sử” cùng với cánh giang hồ khét tiếng một thời. Tôi nghĩ đó cũng là hình ảnh sống động nhất của một giai đoạn lịch sử trong xã hội Việt Nam. Đó là “thiên chức” của người cầm bút, chứ không phải viết lia viết lịa, viết “văng tê bạt mạng” mà chẳng nói được điều gì đáng nói.

Có những đề tài trong phạm vi cuộc sống tâm tư, tình cảm của những thành thị cũng như nông thôn, tôi dành để viết tiểu thuyết. Như một cô gái tỉnh lẻ trong thời đại này đã và đang sống như thế nào, ước vọng thầm kín nhất của họ là gì? Tiến tới một “xã hội công bằng giàu đẹp” như khẩu hiệu hay một cái gì khác? Lớp “đại gia” và lớp nông dân khác nhau như thế nào? Cái khoảng cách giữa thành thị và nông thôn ước chừng bao xa?  Nền kinh tế phát triển mang lại lợi ích thiết thực gì cho mọi con người. Cái gì đang phá sản và cái mới đang hình thành trong con người như  thế nào? Trước hết phải là trong tận cùng ý thức, nó có tính quyết định cho toàn xã hội. Nếu không mọi sự chỉ là giả tạo. Vấn đề khá tế nhị và sâu sắc nên tôi viết tiểu thuyết hoặc tiểu thuyết phóng sự là thích hợp. Thật ra đề tài tôi đang hướng tới là sự tiếp nối của “lên đời”, nhưng chú trọng vào chiều sâu. Nhiều độc giả cho tôi biết “lên đời” vẫn còn thiếu một cái gì đó, chưa tròn vai. Nhận xét đó rất đúng. Đó cũng là dụng ý của tôi. Một cuốn truyện đã lên tới 100 kỳ, hơn 1500 trang A4, đã là quá dài. Đề tài sẽ tiếp tục dưới một dạng khác. Có thể ví von như “Lên Đời” chỉ là cái áo mới của cô dâu, cái “mặt nổi” của thời cuộc. Tiểu thuyết tiếp theo sau là những rung động, những biến chuyển tâm lý của sự thay đổi từ đêm tân hôn và trở thành thiếu phụ.. Nhưng quá bận rộn với những công việc khác nên chỉ có thể hoàn thành trong một vài tháng sắp tới. 

Tôi hy vọng trả lời như thế cũng là tạm đầy đủ cho những điều độc giả Gio- O muốn biết về cách viết của tôi. Mỗi đề tài thích hợp với một lối diễn tả. “Lẩm Cẩm” là một tổng hợp về những tin tức thời sự “nóng”, những điều trông thấy và những dư luận cùng quan điểm của người viết. Làm thế nào để người đọc dễ dàng chia sẻ được với những gì mình muốn nói.

Lê Thị Huệ:  Hình như trước 1975, ông chuyên viết "phơi tông" cho các báo Sài Gòn.

Văn Quang: Đúng là những năm trước 1975, tôi thường xuyên viết feuilleton cho các nhật báo và tuần báo ở Sài Gòn như tôi đã trả lời ở phần trên.

Lê Thị Huệ: Những tiểu thuyết của ông ngày trước có những cái tên rất lãng đãng như "Nguyệt Áo Đỏ", "Chân Trời Tím", "Tiếng Hát Học Trò", tại sao ông lại thích đặt những cái tựa như thế

Văn Quang: Những cái tên … lãng đãng như  “Chân trời tím”, “Tiếng hát học trò”, “Nguyệt áo đỏ…” như chị hỏi, bởi hồi đó tôi còn trẻ, và bây giờ nhìn lại cũng thấy… hơi ngây thơ, mơ mộng nên nó “lãng đãng” như chính cái tên tiểu thuyết vậy. Mỗi lần đặt tên cho một cuốn tiểu thuyết hoặc bất kỳ một truyện nào của mình cũng không giản gị đâu. Làm sao cho “nó” thể hiện đúng đề tài mà không “khô cứng” như một cuốn lý luận, không sa đà, không gây “sốc”. Tôi chắc nhiều nhà văn cũng gặp tình cảnh này. Có khi nghĩ nát óc cũng chẳng ra, có khi bỗng dưng nó “bật” ra lúc nào không hay. Cũng như lúc này, cuốn tiểu thuyết tôi đang viết cứ “dùng dằng nửa ở nửa về” với những cái tên. Thí dụ “phá sản” thì quá “khô” và cứ như có màu sắc “chính trị chính em”, cái tên “cô gái tỉnh lẻ” lại có vẻ “lãng đãng” như chị nói và không phản ảnh được bao quát vấn đề muốn diễn tả. Tôi muốn lấy hình ảnh về những thăng trầm, biến chuyển của cuộc đời một cô gái tỉnh lẻ đến những hoạt động về nhiều mặt của nhân vật  làm tượng trưng cho những vấn đề xã hội “nóng nhất” đang diễn ra công khai hoặc âm thầm. Thật ra những con người đó là đa số trong xã hội bây giờ, là hơi thở của thời đại. Tên truyện chỉ là phụ, song không kém phần quan trọng. Tìm được một cái tên truyện thật khó khăn đối với tôi. Thú thật là có khi phải tạm bằng lòng với cái tên chưa hoàn toàn thích thú.

Lê Thị Huệ:  Ông bị đi tù một thời gian dài sau 1975. Ông có thể nói gì về điều này ở đây và bây giờ chăng ?

 Văn Quang:  Có rất nhiều điều đáng nói về những ngày tháng trong nhà tù. Và cũng đã có rất nhiều những cuốn sách viết về chuyện này rồi. Nhiều chi tiết đã được trình bày cụ thể. Vì thế, lúc này tôi nghĩ ở vào vị trí của tôi, nên chuyên tâm về những vấn đề xã hội hiện tại mà tôi đang có điều kiện tìm hiểu tường tận hơn các bạn khác. Tôi chỉ có thể nói là nhà tù vẫn là nhà tù, không có chuyện cải tạo gì ở đây. Điều này tôi cũng đã viết trong “ngã tư hoàng hôn”. Một lúc nào đó, nếu còn thì giờ, có thể tôi sẽ viết lại toàn bộ những sự thật mà tôi đã được chứng kiến.

Lê Thị Huệ: Ông từng là nhà văn quân đội ở Miền Nam, ông có so sánh nào cho nền văn chương quân đội của hai miền Nam Bắc trong thời chiến?

Văn Quang: Nói về văn chương quân đội giữa hai miền Nam Bắc có lẽ hơi quá tổng quát. Nhưng sự khác biệt căn bản vẫn là mang tính văn học nói chung. Một bên, dù anh là thành phần nào khi hoạt động văn hóa đều phải đi theo một đường lối chung, không thể khác được. Do đó người viết dù ở trong hay ngoài quân đội cũng thế thôi. Họ quan niệm văn hóa là tuyên truyền giáo dục quần chúng nhân dân (trong đó có cả quân đội) thực hiện một chủ trương chính sách trong một giai đoạn nào đó. Còn ở miền Nam thì những nhà văn quân đội không bị lệ thuộc bởi bất cứ điều gì. Tôi làm ở Tổng cục chiến tranh chính trị rất lâu, nhưng chưa hề thấy một “chỉ thị” nào cho những quân nhân viết văn. Họ được tự do sáng tác theo cảm hứng của mình về mọi mặt trong đời sống. Những nhà văn xuất thân từ quân đội hay hơn nữa là từ những chiến trường như Nguyễn Đạt Thịnh, Phan Nhật Nam, Huy Phương, Thế Hoài, Phạm Huấn… viết những gì họ đã trải qua. Hoặc như Mai Trung Tĩnh, Vương Đức Lệ, Tô Thùy Yên, Cung Trầm Tưởng cứ việc làm thơ tình, lãng mạn, không cần Tây Tiến hay Nam Tiến. Cho nên so sánh hai nền văn hóa quân đội giữa hai miền như thế tôi cho là khập khiễng, nên tôi không thể so sánh được.

Lê Thị Huệ: Ông đã từng tiểu thuyết hoá dày cộm những người lính thành phố Sài Gòn trước 1975. Bây giờ nhìn lại ông có thấy là trật búa hay OK ?

Văn Quang: Tiểu thuyết hóa những người lính không phải là “thần thánh hóa” những người lính. Chị đọc lại “Chân trời tím” và “Người yêu của lính” sẽ thấy tôi tiểu thuyết hoá đời thường của họ. Người lính không đi tu, không là “người con trai khác với những người con trai không đi lính”. Ngoài cuộc sống chiến đấu, ngoài tình đồng đội, họ có cuộc sống của mình. Cũng yêu thương, ghen hờn, lãng mạn như những ghệ sĩ chính hiệu. Nói cách khác, tôi diễn tả rõ hơn, tỉ mỉ hơn về cuộc đời quân ngũ. Không phải tất cả đều tình nguyện đi lính, có những người “bị động viên” hoặc được đồng hóa. Nhưng tình đồng đội đã làm họ thay đổi quan niệm, ý chí chiến đấu đã tô đậm lý tưởng yêu nước của họ. Vì thế họ trở thành một khối vững chắc cho đến tận ngày nay. Tại sao tôi lại thấy “trật búa” được? Tôi vẫn cho là tôi đã làm đúng, làm được những gì tôi cần làm. Một điều cần nhấn mạnh, đó là xuất phát từ những rung động chân thành của tôi sau những ngày tháng làm phóng viên thời kỳ chiến tranh ác liệt  đầu tiên, qua một số chiến trường thời đó, không vì một chỉ thị nào, một lý do chính trị nào.

Lê Thị Huệ: Nếu cuộc đời biến thành những chương tiểu thuyết. Hãy thử nói về cuộc đời như là những chương tiểu thuyết. Cái chết nào cũng là một cái chết. Cái chết của Miền Nam là một cái chết tức tưởi nhưng nó có cái đẹp tuyệt vời của một cái chết tức tưởi. Ông nghĩ đấy là một bất hạnh hay là một may mắn 

Văn Quang:  Cái chết của miền Nam, như chị nói, tôi đã có nhiều thời gian gậm nhấm nó trong tù và ngoài đời, sau khi ở nhà tù ra. Tôi thường nghĩ, chẳng ai muốn tự tử cả. Cái chết bất đắc dĩ được báo trước đó không do miền Nam tạo ra. Người bạn “đồng minh thân thiết” của chúng tôi bỏ bạn, trong khi đối phương có tới 6 nước vẫn trung thành tiếp súng đạn thì “sáu thằng đánh một chẳng chột cũng què”. Và những “panic” từ Huế đến Pleiku, Đà Nẵng, Nha Trang, Bình thuận vào đến TP. Sài Gòn đều do người bạn đồng minh của chúng tôi tạo ra. Gây hoảng loạn khắp nơi để tẩu thoát như một ván cờ thua. Điều đó rõ như ban ngày. Tôi so sánh với cuộc rút lui của quân đội Pháp sau khi ký hiệp định Geneve, dù sao thì mọi tổ chức cũng chu đáo hơn, có tình có lý hơn, nhân đạo hơn. Nếu người Mỹ vẫn tuyên truyền rằng “cộng sản chiếm được miền Nam thì Sài Gòn sẽ là một biển máu”. Vậy mà họ đã để lại chúng tôi bơi trong cái biển máu ấy, sau khi bí mật bắt tay đối phương. Có thể coi họ là đồng minh được không?

Vậy thì cái chết của miền Nam chỉ có thể coi là bất hạnh. Một kinh nghiệm cho những ai còn nuôi mộng lãnh đạo đất nước này.

Lê Thị Huệ: So sánh đời sống của ông bây giờ với đời sống trước năm 1975, ông phát biểu như thế nào. Tôi hỏi ông câu này với một thái độ rất trân trọng, vì ông là một tác giả hiếm hoi, ông sống sót và sống qua những giai đoạn khốc liệt ấy, mà vẫn viết với cái tên Văn Quang. Một Văn Quang lừng lững không thoả hiệp. Hình như ông là 1 tác giả độc nhất vô nhị viết và viết được trong cái thế sống vô cùng chênh vênh ấy

Văn Quang: Thật ra ngay từ đầu, khi trả lời lá thư của Gio-O tôi đã thành thật thưa rằng “không thích nói về mình”. Nếu cần nói thì có rất nhiều điều phải nói, phải trả lời. Một người cầm bút nên để độc giả phán xét về mình hơn là những gì mình tự nói hoặc bị kẻ thù xuyên tạc.

Xin cảm ơn về những nhận xét của Gio-O dành cho riêng tôi. Vâng, tôi sống như vậy đấy. Chẳng có gì phải che giấu, chẳng có gì phải khiếp sợ nữa. Còn gì nữa đâu mà khiếp sợ và tôi không làm điếu gì xấu, không “phá hoại”… thì cứ lừng lững mà làm. “Danh chính ngôn thuận” và “đường ta ta cứ đi”. Cái gì có thật thì tôi viết. Không bới móc lung tung, không phao tin đồn nhảm. Quyền phê phán là của người dân. Quyền bất bình cũng là của người dân về những điều có thật đã và đang xảy ra.

Cũng có một số người viết như tôi đang có mặt ở miền Nam như Nguyễn Thụy Long, Đoàn Dự, Hàm Anh… và một số người không ký tên rõ rệt như người Tân Định, Người Sài Gòn… Và còn cả những người viết không thường xuyên, thỉnh thoảng mới có một vài bài. Những anh em đó cũng là những cây bút hoàn toàn độc lập. Mỗi người có một cách viết, cách lựa chọn đền tài và mức độ khác nhau. Chúng tôi có gặp nhau như những người bạn bình thường, nhưng không thảo luận về những gì mình sẽ viết. Do đó đôi khi có những đề tài trùng hợp, song mỗi người nhìn theo quan điểm của riêng mình. Được độc giả đón nhận như thế nào lại là chuyện khác. Có cố gắng tìm cách “ngoi lên” cũng chẳng được. Cách tốt hơn hết là cứ thành thật với chính mình, cứ thảnh thơi mà làm được việc mình muốn làm. Như tôi đã nói ở trên, sẵn sàng chấp nhận điều “rủi ro” sẽ đến vào bất kỳ lúc nào. Chấp nhận cả đòn hiểm của kẻ thù, của những kẻ đố kỵ, ghen ghét sảng. Cứ lo nghĩ đến nó thì thà xếp quách computer lại hoặc chỉ để ngồi chơi games, chơi “meo” cho xong. Xin tiền con hay đi đánh vi tính, làm lay-out thuê cũng đủ sống.

Có thể nói tôi đã tập được thói quen, không còn ngồi đó tiếc nuối dĩ vãng. Thời gian không bao giờ trở lại được. Tôi bằng lòng và thích ứng với những gì tôi đang có. Trước kia sống sung sướng hay bây giờ, tôi cũng chẳng biết nữa. Một điều đáng nói là không thể quên những người bạn cũ, dù còn sống ở bên kia hay đã mất. Đôi lúc ngơ ngẩn chỉ vì những thứ đó thôi.

Lê Thị Huệ:  Một cách công bằng, ông có nhận xét gì về nền sáng tác Miền Nam 1955-1975.

Văn Quang: Về  những sáng tác từ ở miền Nam từ 55-đến 75, tôi cho đó là thời kỳ sung sức nhất của những sáng tác của văn học Việt Nam từ trước tới nay. Kể cả về số chất lượng cũng như chất lượng, những vị đàn anh lớn tuổi cũng như những nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, ca sĩ… mới xuất hiện. Một số tác phẩm văn học khổng lồ đã được trình diện, một số báo chí về mọi mặt từ trình độ cao đến bình dân đua nhau tự do cạnh tranh. Một số ca khúc trở thành “bất tử” dù cho nó đã bị khai tử nhiều lần. Cho đến bây giờ ở Việt Nam, rất nhiều tác phẩm từ  thời đó vẫn còn nguyên giá trị, nó xuyên suốt qua mọi thời đại. Độc giả, khán thính giả từ thành thị tới thôn quê vẫn thưởng thức những món ăn tinh thần đó, chẳng cần ai khuyến khích, khuyến mãi.

Cách công bằng nhất để nhận định thì nhãy nhìn vào thị trường, nhìn vào sự trân trọng của người dân.

Mặt khác, việc xuất bản những tác phẩm văn học nghệ thuật hồi đó hình thành một trật tự hơn bây giờ. Kể cả sách xuất bản ở nước ngoài cũng như ở trong nước. Hầu như bây giờ, một số tác phẩm không còn mang đúng giá trị đúng như văn học định nghĩa. Nó là sách lam nham, ai có tiền thì cứ in. Vàng thau lẫn lộn, trong đó có những cuốn không đáng gọi là sách, có những bài không đáng gọi là bài. Điều này rất có hại cho những người trẻ tuổi, nhất là lớp mới lớn ở nước ngoài. Nếu đọc một cuốn sách lem nhem như thế họ sẽ nghĩ gì về những tác phẩm khác của ông cha, của những người đi trước?

Vì thế nên tôi vẫn cho rằng 20 năm văn học miền Nam 55-75 có nhiều tác phẩm giá trị hơn, dù cho có những tác phẩm chỉ có giá trị trong từng thời kỳ.


Lê Thị Huệ: Nhà văn Văn Quang, Giám đốc đài phát thanh Quân Đội, viết tiểu thuyết Chân Trời Tím, đi cải tạo mút mùa lệ thủy, không đi Mỹ theo diện HO  (mà những người như Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên còn không cưỡng lại sự tự do ở chân trời kia), còn Văn Quang không đi. Ở lại Việt Nam. Văn Quang là ai thế?

Văn Quang: Tôi vẫn cho rằng những người bạn tôi đi định cư hầu hết vì lo cho tương lai của con cái, cho cuộc sống gia đình hơn lo cho chính bản thân mình. Họ có lý do chính đáng để ra đi. Còn tôi, hầu như chẳng có lý do gì cả. Khi tôi ở trại tù ra, các con tôi đều đã định cư ở Mỹ, đi theo “diện vượt biên” và đi học ở Mỹ trước năm 75. Chỉ còn lại mình tôi. Đời sống kinh tế cũng lại bắt đầu ổn định, bằng việc học computer rồi ra “hành nghề” đánh vi tính thuê và làm lay-out cho các tiệm sách báo. Những nhà xuất bản tư nhân, những nhà làm quảng cáo chuyên nghiệp và cả những ông làm “báo lẻ” như Thanh Thương Hoàng, Thái Phương cũng đều thuê “công ty gia đình” của tôi làm hết. Hồi đó Sài Gòn chỉ có rất ít computer và người làm được công việc này càng hiếm. Cái may mắn của tôi là ngay khi ở trại tù ra, tôi đã tò mò đi học khóa computer đầu tiên vào những năm1989-90-91. Kể về chuyện đi học computer của tôi chẳng qua cũng là chuyện “bất đắc dĩ” và khá dài dòng, cười ra nước mắt. Tôi sẽ kể lại vào một dịp khác. Sau khi học xong vài khóa, tôi đã được các cháu ở Mỹ yểm trợ cho mấy cái computer và máy in laser để hành nghề. Công việc kiếm ăn khá phát đạt. Vì thế tôi thấy không cần phải đi đâu nữa cả. Hơn thế, bà xã của tôi và các cháu cũng đã “yên bề gia thất” nên  tôi không muốn khuấy động cuộc sống của gia đình mình, gây thêm những thắc mắc vướng bận cho những người thân.

Ở đây cũng còn một số anh em sĩ quan cũ, sau khi ở tù ra rồi, cũng không đi theo diện HO. Dường như vấn đề kinh tế quyết định tất cả. Hầu hết những người ở lại đều có một cuộc sống tương đối ổn định hoặc có những trở ngại về gia đình, như con cái có vợ có chồng rồi không được đi theo… Mỗi người một hoàn cảnh.

Mặt khác, tôi nghĩ anh em ra đi nhiều rồi, tôi muốn ở lại để chứng kiến cho hết, cho đầy đủ những đổi thay. Đời sống lúc đó ở đây bấp bênh, rồi chao đảo vì Liên Xô tan rã, vì Đông Âu lập lờ… Cuộc sống “lên voi, xuống chó” quay quắt, nếu nhìn như một kẻ ngoài cuộc, nó sinh động hơn một sân khấu với đầy đủ bi hài kịch thú vị. Có quá nhiều đề tài mới lạ cho mình ghi nhận. Làm một nhân chứng sống có lẽ hay hơn. Và cũng vì sự “gậm nhấm” của tôi về “người bạn đồng minh” nên  tôi quyết định ở lại.

Mãi tới sau này, một số không ít những người bạn tôi cho rằng tôi đã lựa chọn đúng. Riêng tôi, cho là một điều may mắn chứ chẳng ai tiên đoán trước được điều gì sẽ xảy ra. Nhưng nếu có sai, có bất cứ điều gì xảy ra, tôi không ân hận. Tôi hoàn toàn bằng lòng vì sự lựa chọn của mình. Và, tôi cũng vẫn cứ tiếp tục sống và viết như từ bao năm nay. Sẽ mãi mãi như thế cho đến khi bạn về đây sẽ gặp tên tôi với hai chữ “chi mộ”.

Xin cảm ơn bạn đọc đã đọc những hàng này. Đây cũng là dịp tôi có cơ hội được tâm sự với bạn đọc. Tôi cũng xin nói thêm là một tờ báo của người bạn tôi, sau khi đã có bài phỏng vấn tôi, đã gửi thêm một số câu hỏi khác đến, nhưng tôi chưa trả lời được. Tôi không viết hồi ký như một số bạn tôi thúc giục, trong một ngày gần đây, tôi sẽ dành cho tờ báo của người bạn tôi những chi tiết khác trong cuộc sống của tôi, thay cho cuốn hồi ký.

Cám ơn nhà văn Văn Quang

Lê Thị Huệ   

 
© 2007 gio-o

http://www.gio-o.com/vanquang.html

 

 


 

 

Friday, August 29, 2014

You Are My Destiny

Nghe Bạn Mình Hát

Định Mệnh Của Anh

( You Are My Destiny )

Nhạc & lời: Paul Anka

Lời Việt: Nguyễn Giang

Tiếng đàn: Tạ Kỳ Linh

Tiếng hát: Nguyễn Giang





You Are My Destiny

( Words and Music: Paul Anka )

You are my destiny
You share my reverie
You are my happiness
That's what you are

You have my sweet caress
You share my loneliness
You are my dream come true
That's what you are

Heaven and heaven alone
Can take your love from me
'Cause I'd be a fool
To ever leave you dear
And a fool I'd never be

You are my destiny
You share my reverie
You're more than life to me
That's what you are

You are my destiny
You share my reverie
You are my happiness
That's what you are


ĐỊNH MỆNH CỦA ANH

( Lời Việt: Nguyễn Giang )

Em như cơn mơ ngát xanh
Em chia ước muốn trong anh
Em như trăng khuya viễn khơi
Cõi lòng anh chờ!

Anh mong em luôn có đây
Ta chia nhau nỗi cô đơn
Em như sao băng cuối thôn
Cõi lòng anh chờ!

Ơn Trên đã kết nối chúng mình,
chẳng còn ngày nào lìa xa
Em yêu, anh vẫn giữ mãi trong lòng
Những thiết tha em dâng hiến

Em như cơn mơ ngát xanh
Em chia ước muốn trong anh
Em như trăng khuya viễn khơi
Cõi lòng anh chờ!


Tuesday, August 19, 2014

Tập Hát Cho Reunion 46

Ban Đồng Ca 7/68KQ

Ca Trưởng Dr. Bích Liên

Hòa âm & Đệm đàn: NS Tạ Kỳ Linh



Hội Nghị Diên Hồng

Lưu Hữu Phước





Con Đường Vui

Lê Vy & Phạm Duy




Con Đường Vui


Đoàn người tưng bừng về trong sương gió
Hồn như đám mây trắng lững lờ
Giang hồ không bờ không bến
Đẹp như kiếp Bô-Ê-Miên

Ánh dương lên... (Ánh dương lên...)
Một đoàn thanh niên... (Một đoàn thanh niên)
Dục nhau đi từ khi nắng sớm
Lúc gió chiều... (Lúc gió chiều...)
Về trong tiếng tiêu... (Về trong tiếng tiêu)
Bóng ai còn in trên dường dài

Đoàn người đi... (Đoàn người đi...)
Vượt rừng qua núi... (Vượt rừng qua núi...)
Bước chân vui... (Bước chân vui...)
Qua miền xa xôi... (Qua miền xa xôi)
Kìa là đoàn người Việt Nam gieo thắm tươi

Đoàn ta, vui bước trên đường mưa gió về
Còn nghe, vang dư âm bao lời ca âu yếm
Đoàn ta, tai lắng nghe hồn chinh chiến về
Đường xa, đi chưa quên bao thù xưa!...



Về Miền Nam

Trọng Khương




Về Miền Nam


Ðứng vùng lên nào bao thanh niên yêu nước
Hướng về đây miền Nam thân yêu nắng ấm
Theo vết chân người xưa ta tiến lên đường đi
Bao nắng mưa sương gió nào ngại chi

Sông nào... (cắt nước đôi nơi...)
Sông nào... (xé nát tim tôi...)
Sông nào... (bóp chết thương yêu Việt Nam ơi!)

Sông buồn... (khóc nước tang thương...)
Sông gầm... (thét khúc bi thương...)
Sông sầu... (nước mắt ly hương Việt Nam ơi!)

Ði ! Về miền Nam !
Miền thương yêu hương lúa tràn ngập đầy đồng
Ði ! Về miền Nam !
Miền xinh tươi đất rộng cùng chung đời sống

Vang lừng khúc hát hoan ca
Say đời sống ngát hương hoa
Ta cười đón gió phương Nam miền tự do

Ðây miền đất nước xinh tươi
Ðây miền nắng ấm reo vui
Ðây người sống khắp muôn phương Việt Nam ơi !

( Nhạc dạo, rồi trở lại từ đầu... )

( lần 2 hát đoạn này để hết )


Ðây miền đất nước xinh tươi
Ðây miền nắng ấm reo vui
Ðây người sống khắp muôn phương... Việt... Nam... ơi !


Sunday, August 17, 2014

Friday, August 15, 2014

Tuesday, August 12, 2014

Lễ Kỷ Niệm 35 Năm Cap Anamur tại Hamburg Đức Quốc


Tìm Hiểu Về Ngày Lễ Kỷ Niệm 35 Năm Cap Anamur



Lễ Kỷ Niệm 35 Năm Cap Anamur tại Hamburg Đức Quốc



Lễ Kỷ Niệm 35 Năm Cap Anamur tại Hamburg Đức Quốc



Cảm nhận những thuyền nhân trong Lễ Kỷ Niêm 35 năm Cap Anamur


Monday, August 11, 2014

Thảy Lỗ

Chuyện Tản Mạn

Hồ Viết Yên


Thảy Lỗ là danh từ quen thuộc của các phi công trực thăng và thường được nhắc tới trong các phi đoàn trực thăng H-34 và UH-1. Tôi được nghe kể lại Phi Đoàn 219 (PĐ219) đã xử dụng phương pháp thảy lỗ này thường xuyên nhất trong các phi vụ nguy hiểm, khó khăn khi phải thả hay bốc những toán biệt kích. Nhưng từ lúc nào các phi công CH-47 Chinook khổng lồ bắt đầu học chơi trò thảy lỗ? Và từ bao giờ các Phi Công Chinook áp dụng phương pháp thảy lỗ này?

Chúng tôi 11 Hoa Tiêu đầu tiên được đưa qua học Chinook sau khi mãn khoá trực thăng UH-1 từ trường bay Fort Hunter, Atlanta, Georgia. Khi đến trường bay Fort Rucker, Alabama, thì chúng tôi gặp những hoa tiêu đàn anh với nhiều giờ bay cùng kinh nghiệm chiến trường đến từ Việt Nam và thêm vào khóa học Chinook đầu tiên này là các Sĩ Quan Liên Lạc tại các trường bay đã hết nhiệm kỳ với cấp bậc Đại uý và Thiếu Tá.

Tôi và Đại Úy Nguyễn Văn Hoa học bay Chinook chung một thầy (Flight Instructor). Anh Hoa là hoa tiêu có nhiều giờ bay, kinh nghiệm chiến trường và anh vừa xong nhiệm kỳ làm Sĩ Quan Liên Lạc tại trường bay Fort Hunter. Trong những lúc rảnh rỗi anh thường hay kể chuyện những phi vụ của anh và bạn bè trong các phi đoàn trực thăng H-34 và UH-1. Anh có biệt tài kể chuyện, thường chuyện anh kể rất lôi cuốn và tôi rất thích nghe. Nhất là chuyện bay bổng ở Việt Nam.

Tháng 9 năm 1970 mãn khóa chúng tôi về nước. Phi Đoàn Chinook đầu tiên 237 được thành lập. Anh Hoa là trưởng Phòng Hành Quân (PHQ). Trong lúc đợi người bạn đồng minh Hoa Kỳ bàn giao máy bay Chinook, thì Bộ Tư lệnh Không Quân tạm thời đưa chúng tôi lên đồn trú tại phi trường Phú Lợi, tỉnh Bình Dương và bắt đầu bay chung với các phi công Mỹ.


Phi trường Phú Lợi

Sinh hoạt ở đây, dù đợi phi vụ hay nghỉ ngơi sau những phi vụ trong ngày thì chúng tôi đều quanh quẩn trong PHQ và anh Hoa cũng thường có mặt ở đó. Thỉnh thoảng có thì giờ thì anh dùng xe Jeep của Phi Đoàn để chỉ cho anh em muốn học lái. Thì giờ còn lại thì chúng tôi hay quây quần bàn chuyện tiếu lâm, tán dóc cho qua giờ. Anh Hoa hầu như lúc nào cũng tham dự vào và kể nhiều chuyện tiếu lâm rất vui làm chúng tôi cười quên cả ngày giờ. Thỉnh thoảng anh cũng kể những chuyện bay bổng về các phi vụ của thời xa xưa trên trực thăng H-34 hay UH-1.

Qua những câu chuyện đó, có chuyện H-34 và UH-1 thảy lỗ. Những động tác thường đi đôi với câu chuyện tạo thêm phần hấp dẫn và thu hút, có vài lần anh kể đi sâu vào nhiều chi tiết của cách thảy lỗ. Câu chuyện đó cũng như nhiều câu chuyện khác gần như ít ai còn nhớ. Riêng tôi có lẽ vì được nghe câu chuyện này nhiều lần và những chi tiết mà anh diễn tả đã in trong trí nhớ của tôi từ lúc nào!

Chúng tôi là những phi công trẻ vừa rời trường bay từ Mỹ về nước thì được điều động ngay vào những phi vụ đổ bộ, tiếp tế, chuyển quân cho vùng 3 chiến thuật. Thời điểm này các phi vụ hầu hết là vùng Tây Ninh, đến căn cứ Thiện Ngôn và sau đó vượt qua bên kia biên giới Việt Miên, bay đến Kampong Chàm, có nhiều phi vụ tôi đã bay đến Phi Trường Nam Vang, thủ đô của Campuchia và những vùng Tây Bắc xa xôi khác trong lòng đất Miên.

Những phi vụ bay đổ bộ lính thiện chiến của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà (QLVNCH) bất thình lình xuống để tiêu diệt những căn cứ hậu cần và tiếp liệu của Việt Cộng (VC) và Cộng Sản Bắc Việt đã đặt theo biên giới và sâu trong đất Miên.

Bay đi thì đổ bộ lính chiến, tiếp tế, đạn dược, nhiên liệu, thực phẩm. Bay về thì chở chiến lợi phẩm như súng ống, đạn dược, quân trang, quân dụng và nhất là lương thực mà VC dự trữ để tiếp tế cho bọn bộ đội của chúng đang ẩn trốn trong lãnh thổ của miền Nam Việt Nam. Những chiến lợi phẩm và tù binh VC bị bắt sống đã được chúng tôi đưa về từ chiến trường Campuchia hằng ngày.

Chúng tôi cảm thấy hãnh diện và hăng say thi hành các phi vụ trên đất Miên và chứng kiến những chiến thắng từ khắp các mặt trận gởi về. Bay không biết mệt chỉ thấy hãnh diện vì mình đang đóng góp vào cuộc chiến để bào vệ sự tự do cho miền Nam Việt Nam.

Nhưng thật không may cho QLVNCH và buồn cho vận nước đó là sự ra đi của Đại Tướng Đỗ Cao Trí, vị chỉ huy trưởng mặt trận, bị tử nạn máy bay khi cất cánh lên từ phi trường Trảng Lớn, Tây Ninh. Cái chết thật bí mật mà trong phi hành đoàn đó có một người bạn cùng khoá trực thăng UH-1 với tôi và từ đó cuộc hành quân lùng soát và tiêu diệt Việt Cộng bên phần đất Campuchia cũng chấm dứt.


Tướng Trí và một cuộc họp dã chiến
với đơn vị trưởng của L/L đồng minh Hoa Kỳ, tại mặt trận

Không bao lâu, VC đã lợi dụng đất Miên để chuyển nhiều vũ khí, đạn dược, xe tăng, cũng như nhiều súng phòng không sang bố trí suốt vùng đất từ biên giới Việt Miên đến Tây Ninh. Phi trường Thiện Ngôn ngắn, nhỏ nằm trên đoạn đường này và do bộ tư lệnh của Lữ Đoàn Nhảy Dù đóng giữ. Khi tiếp tế cho căn cứ Alpha (A) phía Tây Bắc của Thiện Ngôn thì Thiếu Úy Trịnh Tiến Khang đã bị trúng viên đạn phòng không. Khang là hoa tiêu đầu tiên của PĐ237 hy sinh cho Tổ Quốc. Từ đó mỗi khi phải tiếp tế cho căn cứ A sát biên giới hoặc biên giới Việt Miên chúng tôi bắt đầu xử dụng phương cách đáp theo kiểu thảy lỗ học hàm thụ qua những lần được nghe kể.


Sân bay Thiện Ngôn

Nhưng trực thăng H-34 và UH-1 nhỏ, gọn thì thảy lỗ là chuyện nhỏ! Chinook móc 1 kiện hàng 4 tấn phía ngoài, nằm dưới bụng máy bay. Bình thường đáp mà không khéo đập tàu dễ dàng hay nhẹ cũng lủng bụng, huống chi nghĩ đến chơi trò thảy lỗ. Dầu vậy, thì chúng tôi cũng vẫn nghiên cứu và tập cách đáp này.

Sau một thời gian thực tập khá lâu trước khi áp dụng lối đáp không sách vở này thì chúng tôi thấy có thể thực hiện được. Đều cần thiết là người Co-Pilot phải giữ BEEP cho thật nhuyễn vì beep không kịp mà để mất vòng quay thì sẽ rớt, đập tàu và về chầu ông bà, còn beep lẹ quá có thể bị over torque, tàu sẽ bị hư động cơ, Trưởng Phi Cơ sẽ bị khiển trách nặng nề, chưa kể đến thời gian và sự tốn kém để thay thế 2 động cơ mới. Trong Phi Đội của tôi có Trung Úy Tạ Văn Sáu (mà chúng tôi hay gọi là chị Sáu) giữ beep cho kiểu đáp này là tuyệt vời. Dầu vậy, muốn đáp kiểu này cho an toàn thì người Trưởng Phi Cơ và người Co-pilot còn phải ăn khớp với nhau trong nhiều động tác.

Thực tập thành công lối đáp mới. Mỗi khi chúng tôi cất cánh từ Tây Ninh để tiếp tế cho căn cứ A hay các tiền đồn trên vùng biên giới Việt Miên hay những vùng có phòng không của Việt Cộng thì chúng tôi thường bay ở cao độ 8.000 tới 10.000 bộ cho những ngày quang đãng, không mây. Ngày có mây thì chúng tôi bay trên mây cho tới khi căn cứ bạn nằm ngay phía dưới bụng phi cơ lúc đó chúng tôi mới bắt đầu xuống theo kiểu trôn ốc, xoáy theo vòng tròn 360 độ, giảm sức nâng tối đa, vòng càng nhỏ thì mức độ an toàn càng cao, còn vòng rộng quá, không nằm trong vòng kiểm soát của quân bạn thì dễ lãnh đạn.

Chinook to và nặng, kiện hàng mang dưới bụng cũng nặng cho nên tốc độ rơi xuống rất nhanh. Kìm hãm chiếc Chinook lại trên bãi đáp nhỏ đã được chỉ định là 1 nghệ thuật. Lẹ làng đặt kiện hàng vào đúng chỗ quân bạn muốn và cất cánh trước khi Việt Cộng pháo kích thì mới mong sống sót.

Có những lúc vào bãi đáp nhìn hoài mà không thấy bóng 1 người lính nào hết, gọi máy hỏi thăm quân bạn trên tần số thì mới biết họ đang nằm dưới những hố cá nhân để phòng ngừa bị pháo kích. Thường chúng tôi hay xin quân bạn cho trái khói để biết hướng gió và chỗ thả hàng nhưng những vùng này hầu như quân bạn luôn luôn từ chối. Có bay nhiều, thấy nhiều, mới thông cảm được cảnh khổ cực, nguy hiểm, của những người lính chiến ngoài mặt trận và từ đó mình mới thương và cảm thông cho sự hy sinh của những người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà.

Khi cất cánh trở ra thì chúng tôi kéo phi cơ lên thật nhanh quay tròn theo trôn ốc trên phạm vi đồn trú của quân bạn cho tới khi lấy đủ cao độ an toàn thì lấy hướng bay về. Thường sau những chuyến đáp như vầy lỗ tai chúng tôi đều bị lùng bùng. Nhưng đó là chuyện nhỏ, hoàn tất phi vụ và còn sống mới là chuyện chính.

Với thời gian, quen dần lối đáp mới, chúng tôi trở thành những chàng phi công Chinook thảy lỗ nghề nghiệp. Từ đó trở đi trên khắp 4 vùng chiến thuật, từ mũi Cà Mau cho tới Bến Hải, đặc biệt những ngày đi biệt phái cho biệt đội Pleiku, biệt đội Cần Thơ, hay biệt đội Đà Nẵng, chúng tôi áp dụng phương cách thảy lỗ này để hoàn tất các phi vụ dầu bãi đáp có nguy hiểm hay đang bị VC vây quanh.

Gởi đến các bạn bài này để nhớ lại vị Tướng anh hùng và 2 người bạn đồng đội đã hy sinh cho Tổ Quốc và cũng đặc biệt tặng đến anh Hoa, người anh dễ mến, vui tính, hiền hoà, thương anh em và lúc nào cũng vui cười.

Chúc các bạn và gia đình, vui, trẻ trung, khỏe mạnh và hạnh phúc.

Hồ viết Yên
K7/68KQ – PĐ237 / PĐ241 Chinook

Sunday, August 10, 2014

August Birthdays

Sinh Nhật Tháng 8

Tổ Chức Tại Nhà Anh Chị Đặng Trần San

August 10, 2014


Video


Click on the video below to play!




August Birthdays

Aug 04: Lê Đặng Hùng
Aug 05: Thủy (Chị Đặng Trần San)
Aug 09: Hà Nội (Chị Lê Đặng Hùng)
Aug 15: Diễm (Chị Nguyễn Minh Hướng)
Aug 17: Nancy (Chị Nguyễn Văn Quí)
Aug 26: Mai (Chị Lê Văn Mạnh)





Tập Hát

dưới sự hướng dẫn của chị Bích Liên





Tập Hát

dưới sự hướng dẫn của chị Bích Liên




Hình Ảnh


Group Photo



Sinh Nhật Tháng 8

Click on Left/Right arrow to see Previous/Next photo!



Sinh Nhật Tháng 8

Click on Left/Right arrow to see Previous/Next photo!



Click on Left/Right arrow to see Previous/Next photo!



Click on Left/Right arrow to see Previous/Next photo!



Click on Left/Right arrow to see Previous/Next photo!



Sờ Chuối





Yên Thân





Hùng Dũng





Cay Chi





Hùng Sử





Giang San





Gian Hùng





Hội Đồng Nội Các





Hội Đồng Tướng Lãnh




Group Photo






Click here
to see all "August Birthdays" photos!






Saturday, August 9, 2014

Thần Tượng Thời Thơ Ấu Của Tôi

Tân Định - Đa Kao

Thần Tượng Thời Thơ Ấu Của Tôi

Cựu Vô Địch Xe Đạp Nước Rút Á Châu và Đông Nam Á

Kính dâng lên anh hồn các cua rơ quá cố đã làm rạng danh môn đua xe đạp Việt Nam trên các thao trường quốc tế. Kính tặng đến những ai đã từng một thời yêu mến môn đua xe đạp.

Trần Đình Phước

Mỗi người trong chúng ta. Có lẽ ai cũng có một thần tượng để tôn thờ cho chính mình. Riêng tôi, cựu vô địch xe đạp nước rút Á Châu tại Đông Kinh, Nhật Bản, và Đông Nam Á Vận Hội tại Ngưỡng Quang, Miến Điện, năm 1961: “Cua rơ Nguyễn Văn Châu là Thần Tượng Thời Thơ Ấu của tôi.”

Vào môt buổi trưa cuối tháng Bảy, năm 2014, trong chuyến về thăm gia đình ngắn ngày, tôi cố gắng dành chút thời giờ thả bộ từ phía Cầu Kiệu đi về hướng chợ Tân Định. Thời tiết rất nóng bức và khó chịu. Mới rảo vài bước mà quần áo đã ướt đẫm mồ hôi. Khi đi ngang qua nhà bác sĩ Kính, bác sĩ chuyên trị về mắt trước năm 1975, tôi tình cờ gặp một người đàn ông khoảng ngoài bảy mươi tuổi đang đứng trông chừng xe cho khách trước tiệm “Bánh Tằm Bì 370 - Đặc Sản Bạc Liêu.” Tiệm này trước kia là nhà của ông Lang Sách, chuyên bắt mạch, cho thuốc Đông Y gia truyền.

Sau vài giây định thần, tôi hỏi ông ta: ”Có phải ông là cua rơ Nguyễn Văn Châu đã từng làm rạng danh nền đua xe đạp VNCH trước năm 1975 không?”

Ông ngạc nhiên hỏi sao tôi lại biết tên ông ta. Sau đó, ông trả lời: Đúng! chính ông là cua rơ xe đạp Nguyễn Văn Châu. Nói xong ông mời tôi nếu có rảnh, thì thử thưởng thức đặc sản của tiệm, do chính con trai thứ của ông làm chủ và trực tiếp đứng nấu. Còn ông thì chỉ giữ nhiệm vụ coi chừng xe cho khách, để khách an tâm thưởng thức và không sợ khi trả tiền xong đi ra ngoài tự nhiên thấy xe không cánh mà bay thì “Buồn ơi! Chào mi!” Mỗi khi quán thiếu gì, ông liền xách xe đạp chạy ngay ra chợ Tân Định gần đó để mua thêm.

Đang đói bụng và thèm một ly trà đá lạnh, nên tôi đi thẳng vào quán và chọn bàn cuối cùng ngồi. Tôi gọi một tô Bánh Tằm Bì, vì tôi nghĩ chắc là món chiến lược của quán, và không quên kêu thêm một ly trà đá lạnh.

Lúc này đã quá trưa, quán chỉ còn tôi là khách. Ông đến ngồi bên cạnh tôi và nói: ”Bao nhiêu năm nay, ít có ai hỏi đến tên tôi.” Đây là lần đầu tiên có người nhắc đến tên ông.

Tôi xin phép được gọi ông bằng anh và cho biết hồi nhỏ tôi rất mê môn đua xe đạp, nhưng không theo đuổi được, vì lý do sức khoẻ. Hôm nay gặp đươc ông, người mà tôi coi như thần tượng lúc còn nhỏ, thật là một điều may mắn và bất ngờ đối với tôi.

Tôi hỏi ông: ”Nếu có thể, xin anh cho tôi được có vài câu hỏi.” Ông cười vui vẻ với cái miệng móm xọm rất có duyên, rồi nói: ”Em cứ tự nhiên. Anh sẵn sàng trả lời các thắc mắc của em.”

- Anh có thể cho em biết sơ lược qua về anh.

Anh sinh ngày 24 tháng 8, năm 1940, tại Phú Nhuận - Gia Định. Gia đình gồm Ba Má và sáu anh em, hai trai và bốn gái. Lúc đầu gia đình ở Phú Nhuận. Năm 1952, dọn về Tân Định, hẻm 392 đường Hai Bà Trưng. Bên trái hẻm là tiệm chụp hình Văn Hoa, kế bên có tiệm nhuộm Tô Hồng, Thuốc Lào Vĩnh Bảo. Bên phải hẻm có Billards và Phở Vạn Lợi, sát bên có con hẻm nhỏ sửa giày dép và tiệm Cà Rem Hoàn Kiếm. Nhìn sang bên kia là đường Nguyễn Văn Mai, có nhà thuốc Tây Trần Ngọc Tiếng, Pháp Hoa Ngân Hàng, tiệm may Thái Lai, nhà thuốc Bắc của ông Thần Bút.

Hồi nhỏ anh và em trai theo học tại trường Hoà Bình, gần nhà thờ Đức Bà. Lúc mười hai tuổi thì chuyển sang học trường La San Đức Minh. Còn các em gái thì theo học trường Thiên Phước.

- Nguyên nhân nào anh đến với môn đua xe đạp?

Lúc đầu anh rất thích môn bóng tròn. Nhưng Ba anh nói ”Con đá banh có một cẳng thì chán lắm!” Sao con không chọn môn đua xe đạp? Chơi môn này con có thể dùng cả hai chân, hai tay và cả cái đầu. Nghe theo lời ba anh đốc thúc. Anh tập đạp thử chiếc xe đạp cà tàng của ba anh. Tình cờ, hai cua rơ đàn anh là Trần Gia Thu và Trần Văn Nên thấy anh chạy có nét, nên khuyến khích anh tập chạy đua nước rút. Hai đàn anh ra sức hướng dẫn một mầm non sẽ có nhiều triển vọng trong tương lai.

Thấy con mình đam mê, miệt mài tập tành. Thế là ba anh hy sinh bỏ ra một tháng lương để sắm cho anh một con ngựa sắt chiến đấu vào thời đó.

- Khi nào thì anh chính thức bắt đầu sự nghiệp đua xe? Chạy dưới màu áo nào?

- Anh bắt đầu chập chững chạy cho Đội Liên Hiệp Công Nhân lúc mười sáu tuổi. Năm sau chạy cho Thủy Quân Lục Chiến. Năm 1959, vào lính thì chạy cho đội Quân Vận. Trong thời gian này không có huấn luyện viên chính thức, mà chỉ có các đàn anh dìu dắt đàn em. Cá nhân anh, lúc nào anh cũng kính trọng và thương quý hai đàn anh: Trần Gia Thu và Trần Văn Nên về tư cách, đạo đức và nhất là hết lòng chỉ dạy tận tình cho đàn em, mà không bao giờ than thở hay nặng lời.

- Xin anh cho biết anh sử dụng xe đạp hiệu nào? Phụ Tùng thay thế khi cần thiết mua ở đâu?

- Anh chạy xe đạp hiệu Bernard. Khi cần phụ tùng ngoại quốc của Ý, Pháp thay thế, thì nhờ tiệm chuyên bán xe đạp và phụ tùng Đoàn Văn Thẩm, nằm trên đường Hai Bà Trưng, đối diện với đường Yên Đổ và trường Trung Học Vạn Hạnh đặt mua giùm.

Mỗi lần tham dự cuộc đua, thì trước đó vài ngày, anh phải tháo hết xe ra từng bộ phận, vô dầu mỡ cho thật kỹ. Chạy thử tới, lui nhiều lần. Kiểm soát mọi bộ phận thật bảo đảm và chắc chắn. Săn sóc chiếc xe còn hơn đứa con cưng của mình.

- Trong cuộc đời đua xe đạp. Xin anh cho biết đã đạt được bao nhiêu thành tích.

- Anh không nhớ hết! Tuy nhiên, anh đã đoạt chín lần vô địch nước rút trong nước. Đặc biệt, hai lần trong cùng năm 1961, mà cho đến bây giờ vẫn còn in đậm trong tâm trí của anh.

Lần thứ nhất “Vô Địch Nước Rút Á Châu” ở Đông Kinh. Trước khi đến Nhật Bổn, anh chỉ vỏn vẹn có ba ngày thực tập tại vòng chảo ở Huế rất thô sơ. Khi tới Tokyo với hơn bốn mươi vòng chảo hiện đại hơn, anh thấy choáng ngộp, và hoàn toàn xa lạ nên cũng rất lo lắng. Do đó, anh ra sức tập luyện ngay. Anh thầm nói: “Vì danh dự tổ quốc, vì màu cờ sắc áo, vì đồng đội đặt nhiều tin tưỏng, anh quyết tâm phải thắng cuộc đua này bằng mọi giá.”

Và anh đã làm được điều ước nguyện này, khi bánh xe đua của anh cán mức trước tay đua nổi tiếng của Nhật tên Ywanmato, trong cuộc đua nước rút 200 mét lòng chảo chỉ đường tơ, kẽ tóc, với thời gian 11 phút 4 giây, khiến cả vận động trường nín lặng. Nhiều người Nhật đã bật khóc, khi đứa con cưng của họ bị thua đau đớn, mà trước đó họ tin rằng tấm “Huy Chương Vàng” chắc chắn sẽ nằm trong tay nước chủ nhà dễ dàng.

Lần thứ hai ”Vô Địch Đông Nam Á Vận Hội” tại Ngưỡng Quang - Miến Điện. Cuộc đua nước rút lần này không phải chạy trên lòng chảo, mà chạy trên đường bình thường. Anh đã thắng không mấy khó! Vì đó là sở trường của anh. Anh cười và nói thêm ”Nghề của chàng mà em.”

- Xin anh kể cho biết vài tên tuổi cua rơ nổi tiếng cùng thời với anh.

Thú thật, bây giờ anh không thể nào nhớ hết! Có thể kể những cua rơ đàn anh có thành tích như: Lê Thành Các với biệt danh là Phượng Hoàng. Ông ta xuống đèo mà vẫn tiếp tục đạp hết tốc lực, dù trong đêm tối, với bất cứ mọi thời tiết. Ó đen Bùi Văn Hoàng được xếp sau ông. Tiếp theo, Ngô Thành Liêm, Lưu Quần, Trần Văn Nên, Huỳnh Anh, Trần Gia Thu, Trần Gia Châu, Trương Tỷ, Huỳnh Ngọc Chánh, Tô Hiếu Thuận, Võ Vĩnh Thời, Nguyễn Hữu Thoại, Nguyễn Văn Hoà, Nguyễn Văn Kỉnh, Trần Hữu Tuấn... Về hướng dẫn, dìu dắt và giúp đỡ hết mình cho phong trào đua xe đạp có Cựu Đ/T Trần Văn Xồi, Phạm Văn Cự, Nguyễn Văn Tạo.

- Xin anh cho biết lúc nào anh giải nghệ hẳn?

Sau năm 1975, anh vẫn còn tiếp tục đua xe đạp. Năm 1976, đoạt giải nhì trong một cuộc đua chạy ra Vũng Tàu. Sau đó anh chuyển sang làm Huấn Luyện Viên cho các đội: Cửu Long, Quận 3, Quận 5, Tân Bình, Quân khu 7. Có lúc phải ra ngã bảy sửa xe đạp và môi giới mua bán xe đạp. Chiếc xe đạp đã làm nên tên tuổi anh cũng phải bán để mưu sinh, mà thời giá lúc đó bằng giá trị chiếc xe Honda. Về sau hai vợ chồng mượn vốn để chuyển sang bán “Bánh Tằm Bì” và các món Đặc Sản Bạc Liêu. Chiếc bàn nhỏ, vài chiếc ghế ngồi chồm hổm nằm trên đường Hai Bà Trưng, trước Billards Vạn Lợi, gần hẻm nhà anh. Sau này bị dẹp lòng lề đường, nên hai vợ chồng anh thuê được căn nhà số 459B đường Hai Bà Trưng, để mở tiệm. Tiền thuê hàng tháng rất cao, vì nằm trên điạ điểm thuận lợi. May mắn được thực khách thương quý anh đến ủng hộ rất đông. Lúc này anh không còn vương vấn với nghiệp xe đạp, để tập trung cho việc buôn bán.

- Hiện nay tình hình kinh tế gia đình anh thế nào?

Anh im lặng trong chốc lát và cho biết: "Thoi thóp qua ngày nào, mừng ngày đó em ơi!" Sức khoẻ càng ngày càng yếu đi vì đủ thứ tật bệnh của tuổi già. Hiền thê của anh chẳng may mất đột ngột lúc vừa đặt chân đến Hoa Kỳ, khi viếng thăm người em. Một trong ba người con trai ra đi vì tai nạn giao thông. Hiện còn hai con trai đều đã lập gia đình. Con trai lớn đang hành nghề tài xế và con trai thứ đang làm chủ cửa hàng ăn uống mang tên “Bánh Tằm Bì 370.” Hiện anh sống cùng với người con thứ ở căn nhà hẻm 392 và phụ giúp con anh trông coi tiệm.

Tôi xin lỗi anh vì đã đặt câu hỏi làm khơi lại nỗi buồn của anh. Bắt tay xin chào từ giã anh. Bước chân ra khỏi tiệm mà trong lòng nặng trĩu. Tràn dâng lên một nỗi buồn cho một nhân tài bị bỏ quên. Cơn mưa bất chợt cùng lúc xuất hiện, càng làm tôi thấy thương mến anh hơn. Tôi hứa sẽ cố gắng viết vài hàng về anh và xin được trân trọng giới thiệu cùng bà con khắp nơi “Bánh Tằm Bì 370” với các món Đặc Sản Bạc Liêu. Điạ chỉ số 459B, đường Hai Bà Trưng, phường 8, Quận Ba, Sài Gòn.

Nếu ai còn quý mến anh. Người đã tạo nên kỳ tích có một không hai trong lịch sử đua xe đạp nước nhà, mà từ trước đến nay chưa có cua rơ Việt Nam nào thực hiện được. Anh đã làm đã làm rạng danh hai chữ Việt Nam trên các thao trường quốc tế.

Xin bà con hãy đến ủng hộ tiệm ăn của con trai anh, với các món ăn đặc sản quê hương của miền sông nước Bạc Liêu. Thức ăn ngon miệng, giá cả vừa phải và tiếp đón lịch sự. Thực khách sẽ có dịp chuyện trò, hàn huyên với nhà vô địch, thể tháo gia tên tuổi đã từng làm say mê giới trẻ yêu xe đạp vào đầu thập niên sáu mươi, bảy mưoi. Chúng ta sẽ cùng anh nhắc lại một thời để nhớ và không bao giờ quên.

Xin được chào anh: “Cua Rơ Vô Địch Nước Rút Nguyễn Văn Châu.” Người con yêu của vùng đất hiền hoà Tân Định và Đa Kao. Thần tượng của nhiều người yêu môn đua xe đạp, và cũng là thần tượng thuở còn ấu thơ của riêng tôi.

Trần Đình Phước
San José, California, 08/2014

Friday, August 8, 2014

Giấc Mơ Trưa

Giấc Mơ Trưa

Lời: Nguyễn Vĩnh Tiến

Nhạc: Giáng Son


Click on the videos below to play!

Trình tấu: Phạm Đức Thành




Hát: Thùy Chi

Múa: Linh Nga




Hát: Tóc Tiên






Sunday, August 3, 2014

Friday, August 1, 2014

Tiếng Lòng

thơ & minh họa
Xanh Thỵ Nhạn Trắng


Buổi sáng em ngồi đây
Nhìn qua khung cửa nhỏ
Em nghe thật vơi đầy
Tiếng lòng đang rộn rã

Buổi chiều em ngồi đây
Nắng chiều héo hắt quá
Mưa chiều thê thảm lạ
Lại trông ngóng vơi đầy

Em nuôi tình trong mắt
Em thắp tình trong tim
Mắt, tim, tuy im lìm
Nhưng lòng rung niềm lạ

Anh cười, anh laị qua
Anh thắp tình ấm quá
Tay em thừa thãi lạ
Tình cháy đỏ âm thầm

Ôi! Thương quá tình câm
Lạnh lùng trong xúc động
Em cứ vái âm thầm
Tình ơi, đừng xao động!