Tạp Ghi
Diễm
Con Diễm vừa tìm được Thằng Dũng. Đây không phải là hai nhân vật trong một quyển tiểu thuyết nào đó của Duyên Anh đâu nhé quý vị. Chúng chỉ là hai đứa trẻ hàng xóm ở đối diện nhà nhau trong một con hẻm nhỏ đường Đặng Dung, Quận Nhất tại Saigon năm nào. Năm Con Diễm dọn về căn nhà số 17 đường Đặng Dung thì nó mới khoảng 10-11 tuổi. Bố nó lên đường vào tù cải tạo nên mẹ con nó phải về nương nhờ nhà ngoại. Ngôi nhà nhỏ đó đã gắn bó với nó biết bao kỷ niệm cho đến khi bố nó trở về, rồi cho tới khi gia đình nó lên đường qua Mỹ tái định cư theo chương trình HO vào tháng 8, 1991. Lúc đó, Thằng Dũng cũng trạc tuổi nó. Gia đình hai đứa vốn biết nhau từ một, hai thế hệ trước. Từ ông bà chúng, xuống đến bố mẹ, chúng nó là thế hệ tiếp nối của mối quan hệ hàng xóm thân thiết đặc trưng của văn hoá Việt Nam. Không biết hiện tại như thế nào, chứ thời đó hàng xóm ở Việt Nam thân nhau lắm, “tối lửa tắt đèn” là có... hàng xóm. Chả là vì những ngôi nhà san sát nhau trong một con hẻm nhỏ thường có chung một bức vách - "Tai vách, mạch rừng." Nhà bên này nói gì, nhà bên kia có thể nghe hết. Nhà bên này nấu món gì nhà bên kia cũng ngửi thấy mùi thức ăn thơm lừng. Huống chi là Diễm và Dũng ở đối diện nhà nhau. Lúc ấy, cả hai đứa đều không có bố. Lúc ấy, cả hai đứa đều non nớt và không hề có khái niệm gì về hai ông bố của chúng cũng chính là hai người bạn đồng môn được đào tạo cùng một khoá từ ngôi trường quân sự danh tiếng của Việt Nam thời bấy giờ: Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam tại Đà Lạt - Khóa 17 Lê Lai, 1963. Lúc ấy, chúng đều là những đứa trẻ sống trong một gia đình thiếu vắng cha. Vì vậy, chúng có cùng một mong ước: sự trở về của người cha. Con Diễm thì biết rõ là bố nó đang ở trong tù Cộng Sản ở một nơi rất xa xôi và cực khổ. Mẹ nó đã dắt chị em nó đi thăm bố mấy lần, có lần phải đi bằng tàu hoả. Lần đó suýt nữa nó bị lạc mất một đứa em trai bởi vì tàu chỉ dừng tại mỗi bến có một vài phút mà người lên kẻ xuống chen chúc xô đẩy nhau thật kinh khủng. Khi tàu chuyển bánh, thằng cu Đạt em nó bị kẹt lại trên tàu. Mẹ nó sợ hãi cố níu lấy bàn tay bé xíu của thằng con nhất định không buông, cho dù bị bà bán bưởi mang đôi quang gánh thật to đạp lên mặt đau điếng. Mẹ nó phải hét toáng lên "Cứu con tôi!" và dùng hết sức bình sinh để kéo thằng bé xuống kịp thời. Hiểm hoạ mất con chỉ cách có một sợi tóc! Thằng Dũng, đáng thương hơn, vì nó không biết bố nó đang ở đâu. Nó chỉ biết bố nó là một "Chiến Sĩ Anh Hùng MIA" (Missing In Action) vì đồng đội của bố nó sống sót trở về kể lại cho gia đình nghe gương can trường của bố nó trong trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Lúc ấy, mẹ nó đang mang thai đứa em gái út. Có lẽ nỗi nhớ thương chồng ám ảnh người mẹ đau khổ của nó trong từng giấc ngủ suốt thai kỳ nên em gái nó khi chào đời đã được mẹ đặt cho một cái tên được ghép bằng chữ "Mộng" (chữ đệm của tên bố nó) cùng với hai chữ "Hoài Quân" (nhớ chồng!) Vậy mà bọn con nít hàng xóm ngày ấy, bao gồm cả Con Diễm, thật là đáng ghét! Chúng cứ giễu con bé em nó bằng cách gọi trại ra thành "Mông Ngoài Quần" làm cho con bé phải bật khóc tấm tức mà đâu hiểu được nỗi lòng người mẹ. Mẹ nó không bao giờ tin là bố nó đã chết. Trong lòng mẹ nó, bố nó vĩnh viễn là một Người Hùng và... sẽ trở về! May mắn thay, cả hai đứa đều có người mẹ tuyệt vời. Mẹ của Thằng Dũng rất đảm đang và tháo vát, dường như món gì mẹ nó nấu đều ngon, nhất là món "phở," vì vậy mà mẹ nó cày cục gom góp vốn liếng mở được một quán phở nho nhỏ trong thành phố. Công việc buôn bán nấu nướng khiến bà bận rộn và hay vắng nhà. Tuy nhiên, điều làm cho Thằng Dũng bực nhất là trước khi đi, mẹ nó cứ nhốt anh em nó trong nhà và khoá trái bên ngoài rồi mang chìa khóa sang gởi bên nhà Con Diễm với lời dặn dò "Rủi có chuyện gì..." Nó bực lắm! Bởi vì những lúc như vậy chị em Con Diễm cứ hay le lưỡi trêu nó và ánh mắt ranh mãnh của Con Diễm cứ nheo nheo nhìn nó giễu cợt. Nó ấm ức!
Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt, Hic!... Nó đồng cảm với nỗi ấm ức của "Ông Ba Mươi" trong bài thơ "Nhớ Rừng" của Thế Lữ hơn ai hết! Nó bèn nghĩ cách. A! con gà mái của nó nuôi bấy lâu bỗng... đẻ trứng vàng. Nó đứng bên trong song cửa sắt dụ khị: - Ê! Diễm. Sang nhà tao chơi không? Gà tao đẻ trứng, mình chơi làm bánh đi! Mặt Con Diễm vênh lên, nói: - Thôi đi! Không được đâu. Mẹ mày mà biết la tao chết! Thằng Dũng... "ủ mưu": - Sao mẹ tao biết được? Mày mở cửa vào rồi tụi mình làm bánh. Khi nào xong mày "nhốt" tao lại, làm sao mẹ tao biết được? Nó bồi thêm: - Bánh bột mì nhồi trứng ngon lắm đó nha! (Ha ha! Nó biết Con Diễm có tới mấy cái "nốt ruồi ham ăn" trên mặt mà - phen này khó đỡ nhá!) Quả thật, Con Diễm bị trúng kế, nuốt nước bọt đánh "ực," nhưng cũng làm bộ gãi đầu ra chiều suy nghĩ: - Ừa, thôi cũng được. Một lần thôi nha! Thế là mấy đứa nhóc hàng xóm có một buổi trưa hè đúng kiểu "vắng chủ nhà gà vọc niêu tôm." Chúng nhồi nhào món bánh bột "bảy món" với tất cả tài nghệ non trẻ của chúng và tất nhiên là tấm tắc, xuýt xoa khen ngon. Sau đó, Con Diễm chùi mép, chùi tay sạch sẽ, nó "nhốt" anh em Thằng Dũng lại theo kiểu "vũ như cẩn" và chuồn về nhà êm re như chưa hề xảy ra chuyện gì.
Tuổi thơ của chúng trôi qua mau trong cái bối cảnh giao thời của nước Việt đầy khốn khó, cho đến ngày gia đình Thằng Dũng lên đường qua Mỹ do người dì của nó đứng đơn bảo lãnh. Hôm đó là một ngày buồn hiu hắt. Thằng Dũng phải cõng trên lưng người mẹ đã lả đi vì khóc, đưa mẹ nó lên xe ra Phi Trường Tân Sơn Nhất. Cuộc chiến với Cộng Sản đã cướp đi người cha của nó, và cho đến giờ phút cuối cùng trên quê hương, những con người gian xảo do chế độ Cộng Sản sản sinh ra lại tiếp tục cướp trắng ngôi nhà mà lẽ ra đã trở thành chút vốn liếng cho mẹ góa con côi gầy dựng cuộc sống trên xứ người. Hai đứa hoàn toàn mất liên lạc từ đó.
Mãi cho đến hơn ba mươi năm sau, một hôm, Con Diễm được các chú bác trong Khóa 17 Võ Bị giao cho nhiệm vụ tổ chức một buổi hội ngộ hai thế hệ. Nó lướt qua quyển Kỷ Yếu Khóa 17 của bố nó và chợt dừng lại nơi tấm hình thân phụ của Thằng Dũng. Nó chợt nhớ cậu bạn hàng xóm thuở thiếu thời và phải ra sức lùng kiếm vòng vèo nửa vòng trái đất mới có được số phone của Thằng Dũng. Tim nó đập mạnh khi nghe giọng nói thằng bạn tinh nghịch năm nào giờ đây đã trở thành giọng một người đàn ông vững vàng và ấm áp. Chúng trao đổi với nhau biết bao là chuyện xưa, chuyện nay, khoe nhau hình ảnh gia đình đuề huề của mỗi đứa. Câu chuyện của chúng chắc cũng giống như câu chuyện của bao nhiêu nhóc tì khác trong xã hội Việt Nam thời đó. Vậy mà giờ đây, sau 36 năm gặp lại, những giá trị cảm xúc quý báu về tuổi thơ nơi quê hương vẫn như nước sông dâng đầy trong lòng chúng. Chợt! Thằng Dũng gửi qua một dòng tin nhắn: "Mấy cái nốt ruồi trên mặt còn không ta?" Trời! Ha ha...
Diễm - 7/30/2019
|
Showing posts with label Tạp Ghi. Show all posts
Showing posts with label Tạp Ghi. Show all posts
Wednesday, July 31, 2019
Con Diễm - Thằng Dũng
Sunday, December 2, 2018
Đòn Chả Lụa Tình Nghĩa
Món Quà Sau Lễ Tạ Ơn 2018
Kính Tặng Niên Trưởng Dupont và Phu Nhân
Sau Lễ Tạ Ơn năm 2018, tôi được nhận một món quà đặc biệt so với những món quà mà tôi đã nhận được từ trước. Đó là một đòn chả lụa do chính tay cấp chỉ huy cũ của tôi là NT Nguyễn Cầu gói gửi tặng.
Niên Trưởng Nguyễn Cầu là cựu Chỉ Huy Trưởng Trung tâm 2 Kiểm Báo Sơn Trà, Đà Nẵng- KBC 6526, hay còn gọi là Panama- Monkey Mountain. NT còn có biệt danh là Dupont và rất thích người ta gọi như thế! Ngoài ra, trên các bài viết của NT cũng ký tên biệt danh này. Những quân nhân đã từng phục vụ tại TT2KB đều kính trọng và thương quý NT vì cách đối xử với cấp dưới giống như anh em trong nhà.
Nếu anh em nào có lỗi thì thường được nhắc nhở, khuyên bảo, ít khi nào phải dùng đến biện pháp kỹ luật. Tôi có thời gian phục vụ dưới quyền NT từ 10/07/1970 đến 27/03/1973. Tôi chưa bao giờ thấy một quân nhân nào trong đơn vị bị NT xử phạt nặng.
Vì thế, sau một cuộc đổi đời bất ngờ. Nay đang sống tha phương nơi xứ người, hoặc còn lây lất nơi quê nhà ở cái tuổi mà ai cũng gần đất xa trời, trên tay đã cầm sẵn tấm vé xe đò một chiều cùng hẹn nhau ở cuối trời chân mây, nhưng NT Nguyễn Cẩu vẫn được anh em dành cho sự quý mến đặc biệt, trong đó có tôi.
Mấy ngày trước Lễ Tạ Ơn 2018. NT email cho biết gia đình đang chuẩn bị thịt tươi, lá chuối, các thứ gia vị.. làm chả lụa tặng bạn bè, anh em ở xa làm kỷ niệm, để thưởng thức tài nghệ của một ông lão đã 85 tuổi vẫn còn hiên ngang ngồi chăm chút từng thứ để hoàn thành tác phẩm chả lụa đặc biệt, hoàn toàn không giống bất cứ tiệm giò chả nào có mặt ở Hoa Kỳ hay Việt Nam sản xuất.
Dĩ nhiên, phải nhắc đến sự trợ giúp và cố vấn của phu nhân NT. Bà là thiếu nữ xuất thân từ phố Hàng Đào, cựu nữ sinh Gia Long mà quân nhân ở TT2KB đều biết tài nghệ nữ công gia chánh tuyệt vời của bà. Có lẽ tôi là người may mắn thưởng thức nhiều nhất vì phòng tôi ở gần nhà NT, nên mỗi khi có gì ngon, bà đều sai các con mang sang biếu chú Ph.
Các cháu rất dễ thương và lễ phép.Tôi nhớ ba cháu trai Quốc Khánh, Quốc Cường, Quốc Thịnh và hai cháu gái Quỳnh Hương và Quỳnh Giao. Truyền thống quân nhân Kiểm Báo khi lập gia đình thường không con, ít con hay sinh con ra toàn là con cháu Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Cô Bắc, Cô Giang. Có lẽ hàng ngày phải tiếp xúc với môi trường chung quanh toàn là điện cao thế (High Voltage), nên bị ảnh hưởng? Riêng trường hợp NT là biệt lệ, có thể điện của NT mạnh hơn điện cao thế. Vì thế, tăng gia sản xuất đến năm, vừa có nếp và vừa có tẻ,
Tối hôm 11/28/18, khoảng 10 giờ vợ của KB Trần Ngọc gọi điện thoại nhắn tôi ngày mai ghé tiệm anh chị để nhận một đòn chả lụa từ Orange County do KB Lộc được NT giao đem vế Bắc Cali trao lại một số anh em, trong đó có tôi.
Ngày hôm sau, San José thời tiết mưa gió tầm tã, tôi cũng cố gắng lái xe đến nhận đòn chả lụa, dù sức khoẻ không được khả quan lắm! Khi cầm trên tay đòn chả lụa do chị TN trao lại được bao bọc rất kỹ, bên ngoài có ghi tên vợ chồng tôi. Phải nói là tôi vô cùng cảm động. Tôi nghĩ NT đã ngoài tám mươi, sức khoẻ bị giới hạn nhiều mà còn nghĩ đến các thuộc cấp năm nào.
Đòn chả lụa chất chứa đầy hai chữ nghĩa tình.Tôi nghĩ NT đã dồn tất cả tấm lòng của mình trong đó, từ lúc sửa soạn thực hiện cho đến khi hoàn thành tác phẩm “Chả LụaTình Nghĩa” để gửi đến các đàn em năm xưa. Thấm thoát mới ngày nào mà đã hơn bốn mươi năm. Kẻ còn, người đã đi xa,
Nhìn thoáng qua, đòn chả lụa này to gấp rưỡi và nặng hơn đòn chả lụa bán ở các tiệm. NT cho biết dùng toàn thịt tươi, không mỡ, chỉ dùng dầu Ôliu, không bỏ thêm hàn the, gia vị được đích thân Phu Nhân pha chế và nêm nếm, nhưng đến khi gói thì do chính đôi tay vàng một thời chơi bóng chuyền của NT gói.
Hôm nay, San José thời tiết se se lạnh của những ngày vào cuối thu. Vợ chồng tôi và vợ chồng con trai tôi cùng ngồi chung quanh bàn thưởng thức chả lụa mà tôi tự đặt tên Dupont, made in U.S.A, được kẹp trong bánh mì nóng hổi mới ra lò. Nhắm mắt lại, nhai chậm rãi, xong nhâm nhi với chút rượu vang đỏ. Ôi! sao mà ngon và đậm đà quá! Đúng Thiên Đàng là đây! Có lẽ trong chả lụa gói ghém hai chữ tình nghĩa, tình huynh đệ chi binh mà cho dù bất cứ ở đâu, trong hoàn cảnh khó khăn, nghiệt ngã nào vẫn giữ một tấc dạ thủy chung.
Nếu đòn chả lụa này được gia đình NT sản xuất và cho ra thị trường, nơi có nhiều người Việt đang cư ngụ, Tôi tin rắng các tiệm bán chả lụa hiện tại của người Việt khó mà cạnh tranh lại.
Với tôi, đòn chả lụa “Nghĩa Tình”của Niên Trưởng Nguyễn Cầu và gia đình là một món quá nhiều ý nghĩa nhất trong mùa Lễ Tạ Ơn năm 2018.
Xin cảm ơn - Xin cảm ơn.
Trần Đình Phước
(San José - California 12/2018)
Sunday, November 12, 2017
Duyên Hội Ngộ
![]() |
Nhạc Sĩ Anh Bằng (1926 - 2015) |
Thân gửi anh Hoàng Khai Nhan:
Ngày 12 tháng 11, cách đây đúng 2 năm, nhạc sĩ Anh Bằng, người mà tôi rất qúy mến và thường gọi là Hiền Huynh đã ra đi. Sáng hôm nay chúng tôi đã ra thăm mộ, đặt hoa và cầu nguyện... Tôi gửi anh bài viết về duyên hội ngộ với người nhạc sĩ tài ba và nhân hậu này. Mời anh đọc bài và tùy nghi chuyển cho những người khác cùng đọc.
Thân mến,
Toàn Phong
GS Nguyễn Xuân Vinh
Nếu tôi có may mắn được gặp
và quen thân với nhạc sĩ Anh Bằng, thì phải nói là chúng tôi đã có
duyên hẹn gặp nhau từ kiếp trước, vì trong đường đời chúng tôi đã
theo hai con đường thật khác nhau.
Thứ nhất là nhạc sĩ Anh Bằng,
người mà từ ngày quen biết nhau, tôi vẫn gọi là Hiền Huynh, đã hiến
trọn cuộc đời cho Âm Nhạc. Anh là một nhạc sĩ nổi tiếng trong dòng nhạc đại chúng của Việt Nam với số lượng sáng tác khoảng 650 tình khúc để lại cho đời. Cùng một lúc là một
trong những nhạc sĩ tiêu biểu của dòng nhạc vàng và nhạc hải ngoại,
Anh Bằng còn là người đã sáng lập Trung Tâm Asia vào năm 1980 để phổ biến những ca khúc Việt Nam
tới mọi cộng đồng người Việt trên khắp thế giới.
Còn tôi, thì khi nhìn vào một bản nhạc,
một nốt bẻ làm đôi, tôi cũng không biết là gì. Theo vận nước đổi
thay, cuộc đời của tôi đã có nhiều thay đổi. Anh bạn nhà văn Võ Ý đã
có lần viết là tôi có ba cái nghiệp, là nghiệp văn, nghiệp bay và
nghiệp giáo. Hai cái nghiệp sơ khởi là nghiệp văn và nghiệp bay, tôi
đã không làm được trọn vẹn. Chỉ còn
nghiệp giáo là theo tôi suốt cuộc đời.
Cũng vì vậy, mà lúc mới đầu, khi kết tình anh em,
Anh Bằng gọi tôi và Phiến Đan là Hiền Đệ và Hiền Muội, nhưng sau đó
anh đổi lại và gọi tôi là Sư Đệ, vì theo anh tôi đã là giáo sư thì
phải dùng chữ Sư cho tôi mới đúng. Anh còn doạ là nếu tôi không nhận được
gọi như vậy thì anh sẽ đổi danh xưng Hiền Huynh ra là Ác Huynh. Trong
văn thư trao đổi, khi đã quen thân với nhau, lúc nào Hiền Huynh cũng
gọi tôi như vậy.
Lần đầu tiên mà hai con đường
chúng tôi đi đã gần gặp nhau là năm tôi mười tám tuổi, nhưng không
phải là ở cái tuổi như hiền huynh Anh Bằng đã sáng tác được bàn nhạc “Nỗi Lòng Người Đi” với những câu
tha thiết:
Tôi xa Hà Nội năm lên mười tám khi vừa biết yêu
Bao nhiêu mộng đẹp yêu đương thành khói tan theo mây chiều.
Bao nhiêu mộng đẹp yêu đương thành khói tan theo mây chiều.
Nỗi Lòng Người Đi (Anh Bằng) Tuấn Ngọc hát
Năm đó, tôi chỉ là một cậu học sinh học thi tú tài, theo trường Trung Học Nguyễn
Khuyến từ Nam Định di tản về huyện Yên Mô
ở tỉnh Ninh Bình. Xa nhà năm đầu tiên, vào dịp đựơc nghỉ Tết,
nếu trở về với gia đình ở tận Hải Dương, tôi sẽ phải đi bộ mấy
ngày đường. Cũng may mà tôi có một bà dì đã cùng chồng mở một
hiệu thuốc Bắc ở huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá, tôi có thể tới đó nghỉ
vài ngày ăn Tết, mà theo đường tắt,
đi từ Yên Mô thì chỉ từ sáng đến
chiều tối là tới nơi. Trong suốt thời gian hai năm theo học ở Yên Mô,
tôi đã đi trên con đường này vài lần và tôi còn nhớ là đi được nửa
đường phải nghỉ lại ở thị tứ Điền Hộ, thuộc huyện Nga Sơn, lúc đó
vào tỉnh Thanh Hoá. Sau này được quen biết hiền huynh, đôi khi tôi thấy
có lời giới thiệu sinh quán của Anh Bằng, ghi nhầm là ở Điền Hộ
thuộc tỉnh Ninh Bình, tôi cũng đã gửi điện thư góp ý kiến cho ban
biên tập Bách khoa toàn thư Wikipedia phần tiếng Việt, thì nay kiểm lại
đã thấy được ghi chính thức là thuộc tỉnh Thanh Hoá, là tỉnh địa
đầu của miền Trung. Tôi còn nhớ, mỗi lần nghỉ chân ở Điền Hộ, ngồi
ăn ở quán nước bên đường, tôi lại
được nghe tiếng phong cầm từ nhà thờ gần đó vẳng lại. Hiền huynh Anh
Bằng lúc đó chắc đã ngoài tuổi hai mươi nhưng lòng còn chưa vương vấn
nhiều chuyện tình đời như sau này anh thường ghi lại trong những bản
nhạc được chuyển đi khắp nơi. Thêm vào nữa, là người ngoan đạo, chắc
lúc đó anh cũng đang quanh quẩn nơi đâu trong thánh đường, hay cũng có
thể đang ngồi gõ trên phím đàn. Là người tin ở thiên duyên hội ngộ,
tôi nghĩ là lúc đó chúng tôi bắt đầu có thần giao cách cảm với nhau.
Vào khoảng cuối năm 2008, nhân
dịp nhà văn Việt Hải, cùng với giáo sư Doãn Quốc Sĩ, và nhà văn Tạ
Xuân Thạc lên San José để giới thiệu về Văn Đàn Đồng Tâm với văn thi
hữu trên miền Bắc Cali. tôi được biết là Văn Đàn đang chuẩn bị đưa ra
một Tuyển Tập gồm những bài viết về Anh Bằng, để vinh danh người nhạc
sĩ lỗi lạc và nhân hậu đã được nhiều người rất mực mến yêu. Trong buổi gặp
mặt, tôi đã nói là thường nghe nhạc Anh Bằng. Thế là Việt Hải ghi ngay
tên tôi vào danh sách những người có thể viết bài đóng góp vào tuyển tập anh đã
dự trù hoàn thành trước ngày cuối năm. Chắc Việt Hải nghĩ là tôi cũng giống
như anh, có thể viết về bất cứ đề tài gì, kể cả về âm nhạc là bộ môn tôi chỉ biết
nghe mà không biết phê bình. Với tôi, nhạc và hoạ là những nghệ thuật người muốn
đạt được phải nhờ vào tài năng thiên phú. Những tài năng đó, chắc phải đợi kiếp
sau tôi mới có được. Giờ đây nếu may mắn viết được vài trang giấy để đóng góp
vào Tuyển Tập thì tôi chỉ có thể tìm trong ký ức để viết ra là tôi bắt đầu nghe
được nhạc của Anh Bằng tự bao giờ, và trong số hàng trăm bài nhạc sĩ đã sáng
tác, những bài nào tôi ưa thích nhất, và qua những giọng hát truyền cảm và điêu
luyện của những ca sĩ nào. Bài tôi viết gửi cho giáo sư Tạ Xuân Thạc lại
được anh Thạc chuyển cho Anh Bằng coi và nhạc sĩ đã hồi âm bằng
những lời viết đầy tình cảm làm tôi vô cùng xúc động khi nhận được:
“Cám ơn anh đã cho tôi
đọc bài của giáo sư Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh viết về Anh
Bằng. Tôi hết sức cảm động khi biết giáo sư, một khoa học gia danh
tiếng, lại là người gần gũi với tôi và gần gũi với cả quê hương
Điền Hộ của tôi nữa. Tôi không giám luận bàn văn chương, tôi chỉ biết
rằng bài viết của giáo sư đã lôi kéo cho tôi nhiều cảm mến của độc
giả, cũng đã cho tôi nhiều vinh dự mà chính ra, một người như tôi,
không đáng được nhận lãnh.
Chúng tôi đã thực sự gặp nhau, khi
tuyển tập đặc biệt này ra mắt ở dưới Nam Cali, và nhân dịp này, Trung
tâm Asia tổ chức một diễn xuất thu hình, và tôi được mời lên sân
khấu, cùng với nhiều giới chức khác, nói đôi lời khen ngợi sự đóng
góp của Asia vào văn hoá rực rỡ sắc mầu của cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại. Trước đó vài tháng tôi có gửi tặng Anh Bằng cuốn truyện
tình cảm thời đại “Tìm Nhau Từ
Thuở” tôi mói viết.
Sau này khi biết nhiều về nhạc sĩ, tôi thấy
anh lúc nào cũng dành cho bè bạn thân thương chút liên hệ văn hoá với
nhau, và với hiền huynh, thì có nghĩa là qua lời thơ tiếng nhạc. Với
tôi, thì trong cuốn sách tôi có tả lần đâu tiên, một chàng thanh niên
từ nơi xa về quê xưa, tới thăm một gia đình trong họ, gặp một cô bé,
còn bé lắm, nên thấy người lạ cô nấp sau lưng bà mẹ hé đầu nhìn ra.
Và mười năm sau, khi anh trở về thăm
làng cũ thì cô bé nay đã lớn khôn, vào tuổi trăng tròn, và người lạ
lùng bỡ ngỡ lần này lại là chàng trai, dù đã đi khắp mọi phuơng
trời nay lại thấy chỉ có quê hương ta là đẹp hơn cả. Trong cuốn sách,
lúc tả tới đoạn này tôi kèm thêm bài thơ có tên là “Mùa Trăng” với những câu mở đầu
Năm xưa em còn bé,
Anh về quê thăm nhà.
Em nấp sau
lưng mẹ,
Nhìn người
khách phương xa.
Bài thơ này đã được Anh Bằng
phổ nhạc và nhân dịp chúng tôi về quận Cam dự buổi trình diễn của
Asia, Hiền Huynh đã tổ chức một bữa ăn tối thân mật, và giới thiệu
bản nhạc lần đầu tiên qua sự trình diễn của ca sĩ Nguyên Khang.
Mùa Trăng (Anh Bằng, thơ Nguyễn Xuân Vinh) Nguyên Khang hát
Tôi cũng in lại bản nhạc ở dưới
đây, và như là một phép mầu nhiệm, những gì hiền huynh chạm tới
cũng trở thành một sự thành công vượt bực như chúng ta đã thấy với
Trung Tâm Asia do anh tạo ra. Tập truyện dài tôi viết ra, mới đầu chỉ
là những truyện ngắn tôi thường viết vào dịp Tết cho các số Xuân,
thường thì cho Báo Thời Luận của anh
bạn Đỗ Tiến Đức. Sau này tôi xếp đặt những câu chuyện theo thứ
tự thời gian để thành tập truyện nói lên một tình yêu thánh thiện
giữa hai người không cùng một
lứa tuổi. Khi cuốn sách đưa ra, một
người bạn trẻ, tuy là kỹ sư cao cấp, nhưng cũng là một nhà
hoạt động văn hoá không ngừng nghỉ, là anh Nguyễn Xuân Hùng, với bút
hiệu Khê Kinh Kha đã sáng tác một bản nhạc lấy tên sách làm tên bản
nhạc, và trích đăng vài đoạn trên Trang Văn Nghệ của anh. Dù phần lớn
cuốn sách chỉ truyền trên mạng mà có những người như bác sĩ Nguyễn
Thượng Vũ ở San Jose, nhà văn nữ Điệp Mỹ Linh ở Houston, cũng viết những bài điểm sách khen ngợi. Nhờ
những sự giới thiệu đó mà tuy sách in đã tiêu thụ hết, nhưng vẫn
còn được trích đăng trên những trang mạng như của Trung Học Thủ Khoa
Huân (Vĩnh Long), và đọc dần trên những đài phát thanh như Đài Truyền
Thông Hải Ngoại, phát đi từ Hoa
Thịnh Đốn. Những bài đọc truyện
lại được giáo sư Trần Năng Phụng, là một cựu học sinh ở Trung học
Chu Văn An, thu lại thành tập đưa lên
mạng, số người được nghe càng ngày càng đông.
Nhờ có Hiền Huynh là người đầu
tiên phổ nhạc bài Mùa Trăng, mà nay một vài bài thơ khác tôi để đây
đó trong cuốn truyện cho đỡ khô khan cũng được mấy nhạc sĩ tài danh
khác lấy ra để lồng nhạc khúc, đôi khi nghe thật trang trọng. Riêng bài
“Mắt Biếc Hồ Thu” cũng được cả
hai nhạc sĩ danh tiếng là Vũ Thư Nguyên (tức bác sĩ Hồ Ngọc Minh) và Võ Tá Hân (là nhà kinh doanh có tiếng
tăm) đưa vào cung điệu.
Vào khoảng cuối năm ấy, nhân dịp
chuyển cư về Nam Cali, chúng tôi tổ chức một bữa tiệc giã từ thân
hữu ở miền Bắc, số tân khách có vào khoảng gần 200 người, nên Phiến
Đan đã gửi một thư mời tới hiền huynh. Dù ở xa, và đã cao tuổi mà nhạc
sĩ Anh Bằng đã chuẩn bị thật chu đáo để đích thân đi từ Orange county
lên tham dự. Anh Bằng đã thảo luận với nhà văn
và cũng là hoạ sĩ Châu Thụy để trình bầy bài thơ nhạc “Mùa Trăng” thành
một bức hoạ khổ lớn, để tặng chúng tôi, có hình trăng tròn nền
vàng, và hình quê hương chữ S viết bằng ba vạch đỏ chạy song song .
Thư pháp của Châu Thụy viết cũng làm nổi bật hai câu thơ chính của
bản nhạc được trích ra để trên bức họa kèm theo chử ký của Anh Bằng
trông rất đẹp.
Mong
trăng tròn mãi mãi,
Như
mộng ước đôi mình.
Hình
ảnh Hiền Huynh với cử chỉ thân ái lúc tặng chúng tôi bức tranh kỷ
nỉệm trên sân khấu đã được để trên tập ảnh gia đình và ai nhìn thấy
cũng khen chúng tôi là những người thật có diễm phúc.
![]() |
Anh Bằng và Sư đệ cùng Hiền muội |
Sự xuất hiện của phái đoàn Asia đến từ Nam Cali đã làm cho không khí của buổi tiệc vui hẳn lên, và tuy rằng Ban Tiếp Tân đã mời Hiền Huynh ngôi củng bàn các vị Niên Trưởng nhưng nhiều thân hữu khác vì hâm mộ danh tíếng đã đến tận nơi chào hõi và mời Hiền Huynh ra đứng riêng để cùng chụp hình kỷ niệm. Tôi thấy ngay nhạc sĩ là người rất hiền hậu, vui vẻ với tất cả mọi người, ngay cả với những người còn rất trẻ tới xin được gặp học hỏi anh cũng ân cần chỉ dẫn.
![]() |
Phiến Đan và bạn trẻ ca sĩ Đình Bảo |
Sự liên hệ văn nghệ của tôi với
hiền huynh đã đưa lại vài kỷ niệm thật lý thú vì đã tạo nên nhiều
sự việc bất ngờ. Tôi không bao giờ có
mộng là mấy bài thơ tôi làm rồi sẽ được phổ nhạc thành những ca
khúc tuyệt vời nên mỗi khi viết được thơ văn nào, tôi chỉ chuyển cho hiền huynh
đọc với mục đích là chia sẻ những công việc thường nhật của mình với người anh kết
nghĩa. Tôi có một thân hữu lớn tuổi mà tôi thường gọi là Đại Huynh,
vì dưới thời Đệ Nhất Cộng Hoà của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, khi tôi
mới chỉ là một sĩ quan trẻ tuổi, ông đã là Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ, và
trong công vụ coi cả Tổng Nha Cảnh Sát và Công An, dưới quyền chỉ huy
của một vị sĩ quan cấp tướng. Nhân dịp sinh nhật đại thọ 90 niên tuế
của đại huynh Lâm Lễ Trinh tôi làm một bài thơ Đường luật, kiểu thất
ngôn bát cú để kính tặng. Bài thơ như in lại ở dưới đây, sau này
được mấy vị lớn tuổi khác truyền cho nhau đọc và đều công nhận là
tôi làm đúng niêm luật, một điều không ai nghĩ là một khoa học gia
được huấn luyện theo Tây học có thể làm được. Nhưng một điều đặc
biệt hơn nữa, có thể nói là không ai ngờ được, là hiền huynh Anh
Bằng lại phổ nhạc bài thơ Đường luật, và theo sự hiểu biết của tôi
thì chưa có nhạc sĩ nào từng làm. Ai cũng biết là làm thơ Đường
phải theo một niêm luật khắt khe, các hàng, các chữ phải đối nhau
nếu muốn phổ nhạc mà thay đổi một chữ này thì sẽ chạm vào chữ
kia, nếu không thuận ý, chỉ đi thêm một buớc là bị nghẽn lối ngay.
Hiền Huynh chuyển cho tôi bản nhạc như in lại, có đầy đủ chữ
ký, và khi tôi chuyển bài thơ nhạc
để chúc mừng Đại Huynh thì LS Lâm
Lễ Trinh đã rất vui mừng và hỏi tôi diện thoại của nhạc sĩ để ông được
ân cần cảm tạ.
Nhưng chuyện này chưa chấm dứt ở
đây, vì một người bạn vong niên khác của tôi là hoạ sĩ tài danh Vũ
Hối, đã dùng bút lông mực tàu viết thư hoạ bài thơ, tất cả nay được
làm thành một cuốn thư treo trong phòng khách của thượng thư họ Lâm,
nhiều người được coi đã hết lòng khen ngợi như là một gia bảo, vì theo
ý chung của mọi người, thời nay không có thể tìm đâu ra một tấm thư
thơ nhạc tương tự, được nhiều danh sĩ đóng góp.
Tôi nghĩ là một người có tài như
Anh Bằng thì dù thơ tôi làm có khúc chiết đến đâu, Hiền Huynh cũng
nghĩ cách làm cho bay bổng lên được. Một thí dụ nữa để tỏ lòng ưu
ái của nghĩa huynh đối với tôi là có một lần để làm quà cho một
số thân hữu, tôi làm ra một bài thơ dùng những danh từ toán học, có
đề là “Tình Hư Ảo”.
Vậy
mà x
x x x
Chắc bạn đọc đến chỗ này có thể
đoán được là tôi sẽ viết tiếp ra sao. Đúng như vậy đấy, nếu tôi đọc
được ý nghĩ của bạn đọc thì chắc bạn đã nghĩ rằng Hiền Huynh thân
ái của tôi cũng đã phổ nhạc bài thơ đầy phương trình toán này để lưu
lại cho đời một bài toán trong có thơ nhạc giao duyên với thơ và toán
của Toàn Phong và nhạc của Anh Bằng như kèm dưới đây. Chỉ với một
tình huynh đệ thật thắm thiết, mới có thể kết tinh thành một bản
nhạc như vậy.

Thursday, November 9, 2017
Tâm Tình Với Cố Không Quân Phan Minh Nhơn
Nguyễn Văn Quí
Khoảng cuối năm 1989, Nhơn vào thăm hãng của tôi, Nhơn nói, Nhơn có ước mơ thành lập một Thư Viện Phật Học, với những sách dịch ra 2 ngôn ngữ, Việt và Anh, để thế hệ tiếp nối, có dịp học hỏi, và sưu tầm về Phật Pháp.
Nhơn ngỏ ý muốn tôi, và Co-Owners của hãng tôi, bảo trợ cho anh dự án Thư Viện Phật Học. Tôi hỏi Nhơn, cơ duyên nào đưa đẩy bạn Passion về dự án đó, trong khi tuổi đời tuị mình còn trẻ, nhất là mới vừa cầm trên tay mảnh bằng Kỹ Sư không bao lâu, tạm cho tụi mình bắt đầu vào giai đoạn lập nghiệp trên đất Mỹ này? tụi mình bây giờ không còn độc thân như lúc còn trong quân ngũ, vợ còn trẻ, nhất là đang sống định cư trên một quốc gia nhiều vật chất, văn minh, cơ hội nhất trên hành tinh này, sao lại vội tính chuyện nâu sòng, rồi vợ mình sẽ ra sao? Nhơn không trả lời câu hỏi đó, rồi cả 2 quay sang câu chuyện khác.
Tôi hỏi Nhơn về cái job software mà Nhơn đang làm, Nhơn nói, Nhơn rất thích việc làm hiện tại của Nhơn, Tôi và Nhơn xoay quanh nói chuyện về technology, tôi hướng dẫn Nhơn đi tham quan từng department trong hãng, giảng cho Nhơn nghe từng loại Products của hãng sản xuất, Nhơn tỏ vẻ thích thú nghe.
Vài ba năm sau, trong một dịp tình cờ nghe vợ Nhơn, chị Thủy nói, Nhơn đã ngả chay được 2 năm, tôi không ngạc nhiên, giữ yên lặng, sau đó tôi hỏi Nhơn, bạn có ý định đi tu thật à? hay vừa phát giác ra căn bệnh gì mà sao lại ngả chay? Nhơn cười rất tươi và không trả lời câu hỏi, tôi nói đùa “thôi khi nào mày feel muốn tâm sự với tao thì tao sẽ sẵn sàng lắng nghe”.
Cách đây 2 năm 1 số bạn bè khoá 7/68 KQ Nam Bắc Cali tụ lại nhà, bạn Thân Đèn Cày ở San Jose để thăm Nhơn và 1 người bạn cùng khóa 768 cũng mắc bệnh cancer. Tất cả bạn bè đều chúc lành cho 2 bạn, và hy vọng với thuốc men tại xứ Mỹ này có thể chửa 2 bạn được qua cơn bệnh quái ác.
Khoảng tháng 3 năm 2016, Nhơn gọi tôi trong giờ làm việc, Nhơn nói, Nhơn muốn ghé hãng thăm Quí, và muốn hỏi Quí giúp Nhơn 1 chuyện, và muốn nói sau giờ làm việc, tôi trả lời “sẵn sàng, thường sau 5 giờ là OK”.
Nhơn đến gặp tôi và nói, căn bệnh cancer của Nhơn bắt đầu trở lại và nặng. Nhơn chậm rãi buồn rầu kể từng giai đoạn bác sĩ ở Kaiser trị cho Nhơn. Những loại thuốc Nhơn đang uống rất đắt tiền, may là nhờ vào bảo hiểm củahãng vợ Nhơn, chị Thủy, cover hết cho phần bác sĩ, nhà thương trị liệu, nếu không thì Nhơn củng chẳng biết ra sao?
Tôi nói ngay, bạn về nói chị Thủy, bằng mọi giá phải bám sát cái job của chị, đừng bỏ hãng thường xuyên để đưa bạn đi nhà thương chửa bệnh, hãng lấy cớ lay off chị là rất kẹt. Tôi hỏi Nhơn, Bạn có plan nào để đi Kaiser tận Oakland để chemo hoặc radiation không? Nhơn nói, tìm hoài mà chưa ra giải pháp Quí à.
Tôi suy nghĩ vài phút rồi nói với Nhơn “tao sẽ get cái job đưa mày đi chửa bệnh” Nhơn ngại ngùng hỏi tôi “how”? vì tất cả appointment của tao đều vào ngày và giờ làm việc. Tôi nói, Mày don’t worry tao sẽ sắp xếp schedule tronghãng để take care mày.
Tôi đưa cho Nhơn 1 số cellphone khác của tôi, và nói “số cell này chỉ có vợ con tao biết thôi, bây giờ mày cầm đi, bất cứ khi nào, bất cứ tao đang ở trong phòng họp nào, mày gọi là tao sẽ giao hãng lại cho người khác thế, tao sẽchạy take care mày ngay.
Trên đường chở Nhơn đi chemo, Nhơn nói với tôi, “tao trust mày, tao muốn mày cùng vào phòng khám bệnh với tao và trao đổi với các bác sĩ về bệnh tình của tao” tôi nói “thanks mày đã trust tao, OK I will”.
Trong những chuyến chở Nhơn đi chemo tận Oakland Kaiser, cộng thêm tuyến đường thường xuyên traffic bị jam, có khi kẹt đến 2 tiếng đồng hồ , nên tôi và Nhơn có dịp trau đổi tâm tình riêng tư của mỗi đứa, trong lúc kẹt xe, tôi nhìn qua thấy mặt Nhơn rất mệt vừa mới chemo xong, tôi bảo Nhơn “mày bấm ghế bật ra, nằm nhắm mắt lại cho đỡmệt, anyway thì tao phải lái xe thôi, don’t worry tao take care mày. Nhơn hỏi tôi, nếu 1 ngày nào đó sẽ đến mày có sẳn lòng lo Tang Lễ cho tao không? Lòng tôi se thắt, tôi không ngờ Nhơn đã nghĩ đến chuyện đó quá sớm trong khi còn đang đi trị liệu.
Tôi nói, với mày thì tao sẵn sàng, nhưng đối với người bệnh như mày, tinh thần rất quan trọng đừng nghĩ những điều bi quan trong lúc này, không tốt cho sức khỏe.
Trước ngày Nhơn về VN, 23 tháng 7, Nhơn nói với tôi, Nhơn muốn về VN làm lại bộ răng cho rẻ tiền, vì sau nhiều lần đổi thuốc cancer, răng Nhơn hư hết. Chị Thủy đã cố gắng ngăn cản Nhơn về, mà ngay cả tôi cũng thuyết phục Nhơn đừng về, Nhơn nói lúc này Nhơn khỏe đỡ rồi, vì hàm răng làm Nhơn không ăn uống được, và Nhơn sẽ trở lại Mỹ trong vòng 3 tháng, tức 23 tây, tháng 10. Nhưng mới khoảng đầu tuần tháng 9, sức khỏe Nhơn sa sút rất nhiều, đến 5 Tây, tháng 10 Nhơn phải cấp tốc quay lại Mỹ, vừa về đến phi trường chị Thủy ra đón, phải đẩy xe lăn đưa thẳng Nhơn vào Kaiser, được vài ngày Kaiser cho về nhưng trong vài ngày sau, Nhơn than khó thở, chị Thủy phải cấp tốc chở Nhơn trở lại Kaiser, chị Thủy phải ngủ hằng đêm tại Kaiser với Nhơn, mỗi ngày tôi và Nhung đều vào Kaiser ở Oakland để thăm Nhơn và meeting với các bác sĩ báo cáo tình trạng của Nhơn hàng ngày, cho đến 1 ngày, việc gì đến sẽ đến, cú phone ring 5 giờ 28 phút sáng, 20 Tây, Tháng 10, 2017 của Chị Thủy gọi, anh Nhơn vừa chết rồi Nhung, anh Quí ơi. Tôi và Nhung chạy cấp tốc lên Oakland Kaiser Nhơn đã ra đi vĩnh viễn thật rồi, giờ phút trút hơi thở cuối cùng, Nhơn đã ra đi êm đềm bên cạnh người vợ thương yêu đầu đời, chị Thủy.
Tôi và Nhung đến, Nhơn nằm bất động đó, tôi giở tấm drap đấp cho Nhơn sờ trên ngực Nhơn vẩn còn ấm, tôi để hoài bàn tay tôi trên ngực Nhơn thật, thật lâu và thì thầm nói với Nhơn “mày đã bỏ chị Thủy, tao và tất cả bạn bè khoá 7/68 KQ ra đi vĩnh viễn thật rồi sao Nhơn, thôi tao cầu nguyện cho mày ra đi thanh thản, những gì mày chưa thực hiện xong, những gì mày làm dở dang trong đời, đừng vướng bận nữa, hãy trả lại cho cuộc đời, nhẹ nhàng cất bước đi vào cỏi vĩnh hằng đi Nhơn, mày còn đâu đây nghe tao nói không Nhơn ?”. Tao hứa tao sẽ làm tất cả ước nguyện của mày cho ngày Tang Lễ mày trăn trối với tao. Nếu mày còn nghe tao nói, tất cả bạn bè khoá 7/68 đều thương tiếc mày khi nghe tin mày đi chuyến xe cuối cùng trong cuộc đời hôm nay. Những ngày tháng cuối cùng tao take care mày, tao sẽ nhớ muôn đời, không bao giờ quên.
Vĩnh biệt mày ! Nhơn ơi !
Nguyễn Văn Quí
Tiểu Sử Cố Không Quân
Phan Minh Nhơn
1948 - 2017
Phan Minh Nhơn, 69 Tuổi, cư ngụ tại Newark, California, USA. đã qua đời bình yên lúc 5 giờ 28 phút, ngày 20 tây, tháng 10, năm 2017 tại Oakland Kaiser Hospital, bên cạnh vợ anh, Chị Phan Minh Nhơn, Lê Thanh Thủy.
Phan Minh Nhơn sanh ngày 20, tháng 5, 1948 tại Huế, South Vietnam.
Anh gia nhập Không Quân Việt Nam Cộng Hòa, ngày 30 tháng 9 năm 1968.
Tức Khóa 7/68.
Phi Đoàn 211 là Phi Đoàn anh phục vụ đầu tiên tại Phi Trường Bình Thủy, Cần Thơ.
Sau anh được biệt phái qua Biệt Đội Tải Thương 259H khoảng 3 tuần và sau đó anh trở về Phi Đoàn cũ 211.
Phi Đoàn 211 trở thành Phi Đoàn Huấn Luyện.
Sau đó anh thuyên chuyển về Phi Đoàn 229 tại Pleiku, cho đến ngày mất nước
30 tháng 4 năm 1975.
Anh theo đoàn người di tản qua Mỹ 30 tháng 4, năm 1975 bắt đầu cuộc sống mới, và lập nghiệp trên mảnh đất tạm dung, như một quê hương thứ hai.
Vừa đi học vừa đi làm, anh biết rằng, muốn có cuộc sống tạm ồn định trên một quê hương mới, bắt đầu với đôi bàn tay trắng, thì phải trở lại học đường, vì khi còn ở quê nhà, đã lỡ sanh ra trong thời chiến, anh phải tạm gác bút nghiêng để gia nhập quân đội, như bao lứa bạn cùng tuổi, do đó anh nghĩ, trong tình thế di cư bất đắc dĩ qua Mỹ, như triệu người Việtnam khác, đây là cơ hội cho anh thực hiện giấc mơ trở thành Kỹ Sư. Cuối cùng giấc mơ anh đãthành sự thật. Năm 1980 Tân Kỹ Sư Phan Minh Nhơn, làm lễ ra trường tại Chico University of California, với văn bằng Bachelor of Computer Science.
Subscribe to:
Posts (Atom)