Showing posts with label Phạm Minh Xuân. Show all posts
Showing posts with label Phạm Minh Xuân. Show all posts

Wednesday, July 24, 2019

Nhớ Bạn Cũ

Tùy bút

Phạm Minh Xuân


Để nhớ về 7/68 Lê Văn Độ


Phạm Minh Xuân (ngồi giữa) Lê Văn Độ (người ngồi bên phải) và các bạn bay.

Tôi là chứng nhân của những chuyện xẩy ra ở Phi Đoàn 530 thời 1971-1974.

Trong Phi Đoàn 530 trước khi có Thiếu Úy Vĩnh Thuận về (1973) thì chỉ có Lê Văn Độ và tôi là dân Huế chính cống bị thuyên chuyển lên Pleiku cùng một lúc. Trong Phi Đoàn thường hay trêu chọc hai thằng tôi là dân 'Huệ' mà bày đặt đi Không Quân và bay 'Khù-Trục'(?) không trách gì bị tống cổ lên ‘Plề-Cu’ vì thiếu ‘piston’.

Hồi đó trong 3 phi đoàn khu trục còn lại của KQVNCH 514, 518, và 530 hầu hết là người Nam và Bắc. Hai phe nầy kèn cựa và chơi nhau hằng ngày. Chỉ có mấy thằng Huế thủ phận con rơi con rớt, làm... thinh và suốt ngày làm... tầm bậy cho đỡ buồn!

Bên cạnh người bạn nối khố trong quân trường của Lê Văn Độ là Nguyễn Văn Trường ra, tôi cũng là một thằng bạn Huế gốc 7/68 chí thân của Lê Văn Độ trong cuộc đời bay bổng. Độ đã gắn liền với tôi từ khi ở trong trường bay cho đến khi Độ được hạ huyệt.

Độ cùng đi Mỹ và được sắp xếp vào cùng 'K' Flight với tôi ở trường bay Keesler AFB (MS.). Ra trường Độ có điểm 'academic' và tôi có điểm 'flying' cao của 'K' Flight vì vậy hai thằng là hai candidates duy nhất của 'K' Flight... bị chọn đi Skyraider, vì hồi 1969-1970 US-Navy bắt đầu chính thức chuyển giao toàn thể Skyraider cho USAF và USAF phải mở trường tự huấn luyện Skyraider cho USAF ở ngay tại S.O.G Center / Hurburt Field (Eglin AFB, FL.).

Bốn khóa trước bọn tôi (71-01; 71-02; 71-03; 71-04 - See attached pictures) Pilot bị ra cỏ và đập máy bay khá nhiều cho nên trước ngày Class 71-05 bọn tôi mãn khóa, Col. Yeally và Staff của ông ta đích thân bay qua Keesler AFB cho đám T-28 Instructor Pilots biết là Trường Huấn Luyện A-1 không muốn nhận graduated-pilot 'yếu' nữa!

Trong dịp nầy, để khuyến khích và động viên tinh thần, đám nầy cho tôi và Độ leo lên 'tham quan' hai chiếc AD-5 đồ sộ, dơ bẩn và 'ugly SOB' bám đầy dầu mỡ mà họ đã dùng để bay qua Keesler. Không ngờ họ đã làm tôi và Độ quá 'khủng' và muốn đái trong quần luôn! Lòng buồn rười rượi vì cái dơ dáy và uy hiếp tinh thần của chiếc A-1. Không biết với trình độ hơi non tay lái, mới ra trường của mình, rồi có thể chế ngự được con 'trâu điên' nầy chăng?! (USAF called it 'A DUMP TRUCK')

Về Pleiku Tôi còn được 'adopted' bởi các tay đàn anh cô hồn các đảng: Phạm-Văn-Thặng 'Fulro', T.K.Long 'Lăng Quăng', Phúc 'Gandhi', Phùng 'Django' v.v... để tiếp tục quậy và say sưa vô kỷ luật. Còn Độ thì rất hiền từ và chừng mực. Độ cực kỳ chăm chỉ trong việc bay bổng. Trời xấu là thầy mang DASH-1 ra thầy đọc để toan tính học thuộc lòng luôn cả Emergency Procedure section. Tuy khác lối sống nhưng hai thằng tôi rất thương nhau. Có lẽ là vì có chung Huế và 7/68 DNA, và ở chung phòng.

Độ và tôi 'shared' chung một phòng ở cư xá của Mỹ để lại cho PĐ-530 trên đồi cao phía Bắc của căn cứ nhìn xuống phi-đạo, ATC Tower và Tarmac của 2 Phi Đoàn Trực-Thăng.

Đêm đầu tiên sau khi Độ bị tai nạn (See the last attached picture) người ta đem bộ đồ bay của Độ từ bệnh xá về quăng vào dưới gường của Độ. Mùi khét của da thịt Độ làm tôi không thể nào ngủ được, phải vác mền mùng qua phòng của Tiến Chỉnh ngủ.

Sáng sớm hôm sau, được tin Độ đã qua đời tại Long Bình, Phi Đoàn Trưởng Tr/T Mười 'Lung' kêu tôi vào và yêu cầu tôi đem thi hài Độ về Huế để lo một đám tang thật đàng hoàng cho Độ.

Tr/T Mười 'Lung' bảo: "Tôi biết ông anh rể của anh là Đ/T Tôn-Thất-Khiên làm Tỉnh-Trưởng Huế. Anh ráng làm đám tang cho anh Độ càng trịnh trọng chừng nào càng tốt chừng đó để gia đình của người anh em Jupiter chúng ta được vui lòng và thỏa nguyện".

Ông thân sinh của Độ rất thật thà và chất phát giống như Độ. Khi tôi gặp và xin được biết ước nguyện của gia-đình thì ông cụ cho biết chỉ muốn lúc hạ huyệt có được một dàn kèn của ban quân-nhạc tiểu-khu thổi bài Chiêu Hồn Tử Sĩ.

Ngày hạ huyệt 2 GMC với đầy đủ kèn trống của Tiểu Khu đã làm ông cụ và bà con ở Bao-Vinh/Huế hãnh diện và vui lòng.

Kỷ niệm buồn vẫn không bao giờ quên: Những chiều gần Tết thật vắng lặng ở mọi công sở ở Biên Hòa. Tôi theo trực thăng đưa thi hài của Độ về Tử Sĩ Đường Tân Sơn Nhất. Từ Burn-Treatment-Center của Long-Bình Hospital, Trực Thăng dropped tôi xuống Tarmac Khu-Trục A-1 ở Biên Hòa AFB để tôi mượn xe Honda của 1 người bạn Khu-Trục 518 chạy đi ra Tòa Hành Chánh Tỉnh làm giấy khai tử cho Độ trước khi đưa Độ về Huế (vì Độ chết ở Long Bình chứ không phải ở Pleiku).

Phòng sở nào cũng có bàn thờ cúng kiến ngay trước cửa để rước Ông Bà về ăn Tết, chạy tìm người muốn hụt hơi mới xong 1 giấy khai tử có đủ chữ ký cho Độ.

Tối hôm đó tôi ngồi với ông cụ của Độ trong Tử-Sĩ-Đường cho tới 9:00 đêm. Thật là rợn người, không chữ nghĩa nào có thể diễn tả được cái khung cảnh ghê rợn nầy và lòng thương con vô bờ bến của một người cha.

Sau khi đem quan tài vào Tử-Sĩ-Đường, quan tài được kê lên hai 'con ngựa' gỗ thô sơ, một bát nhang và hai cây đèn cầy ở hai đầu quan tài. Mọi người đều biến mất chỉ còn lại hai bác con, một ông già đang đau khổ và một thằng pilot Khu-Trục, tay dao tay súng, trông oai phong lẫm liệt nhưng nhát gan, thỏ đế, sợ ma còn hơn sợ cọp.

Thú thật hôm đó tôi cũng không biết phải giải quyết sự việc bằng cách nào!? Rồi sau đây mình phải làm gì nữa đây?? (lần đầu tiên trong đời lo cho 1 thằng bạn mới chết, không biết mô tê gì cả!!!!).

Hôm đó quan tài của Độ là chiếc quan tài duy nhất trong căn phòng rộng lớn và ma quái của Tử-Sĩ-Đường. Sự đơn lẻ càng làm cho không khí lạnh lẽo hơn. Tiếng gió hú qua mái hiên ở đằng sau nhà càng làm cho khung cảnh thêm ghê rợn như những chuyện ma quái mà tôi đã đọc lúc còn nhỏ.

Hai Bác Con ngồi trong bóng tối của Tử-Sĩ-Đường. Cuối cùng tôi phải lên tiếng và hỏi: "Thưa Bác, Độ về tới đây là cũng tạm thời xong được một bước trước khi chiều mai máy bay C-123 đưa Độ về Huế. Vậy con xin mời bác về nhà con ở Chợ Lớn ngủ qua đêm rồi ngày mai mình trở lại".

Ông Cụ cám ơn và từ chối: "Tui muốn ngồi ở chỗ ni với con tui cho hết đêm ni, để hắn nằm một mình lạnh lẽo không đành. tui không đi mô cả. Tết 'dức' tui hiểu, anh đi về với gia đình đi rồi mai trở vô với tui cũng được".

Trong những tình huống như thế nầy mới thấy được tình cha thương con. Tôi chạy vội ra ngoài cổng Phi-Long mua một ổ bánh mì thịt và một chai xá xị cho ông cụ của Độ trước khi thắp một nén nhang khấn thầm với Độ: "Độ, mầy biết tau ham chơi nhưng tau đã đưa mầy về tới đây rồi, mầy cho tau chạy về thăm nhà một chút trong ba ngày Tết rồi ngày mai tao vô lại với mầy".

Vái xong ba vái là tôi đi lui, trông ông cụ ngồi một mình bên quan tài con, tôi không thể nào đủ mạnh để cầm lại nước mắt của mình vì kính phục lòng hy sinh và tình cao cả của Cha và Con.

Ngày hôm sau, sau khi giải thích cho ông cụ, tôi cho phép đục 4 lỗ trên quan tài (để release the pressure trong hòm lúc lên cao độ) để đưa Độ về Phú-Bài Huế và gác hòm 3 ngày 3 đêm trước khi hạ huyệt.

Có thể nói Độ là người bạn 7/68 mà tôi đã có duyên gắn bó nhất và dành nhiều thì giờ nhất cho nhau trong cuối cuộc đời binh nghiệp. Nhân một lỗi nhỏ trong bài viết của Hà 'cà-chớn' Trần-Ngọc Nguyên-Vũ mà tôi lại có dịp ngồi ôn lại một kỷ niệm xưa cùng chia sẻ với anh em. Cũng là một cái duyên để nhớ bạn cũ.

Phạm Minh Xuân














Lê Văn Độ (người đứng bìa phải) và bạn bè



Lê Văn Độ (người đứng bìa trái) và bạn bè



Máy bay của Độ bị tai nạn ở phi trường Cù Hanh, Pleiku.




Sunday, June 15, 2014

Compressed Moon

Compressed Moon

Photo by: Phạm Minh Xuân

Camera: Nikon D7100

Lens: Fieldscope Nikon EDG 16-48X-65mm

Date taken: June 14, 2014, 11:43pm


Tuesday, February 25, 2014

Nhớ Bạn Cũ

Tùy bút

Phạm Minh Xuân


Để nhớ về 7/68 Lê Văn Độ


Phạm Minh Xuân (ngồi giữa) Lê Văn Độ (người ngồi bên phải) và các bạn bay.

Tôi là chứng nhân của những chuyện xẩy ra ở Phi Đoàn 530 thời 1971-1974.

Trong Phi Đoàn 530 trước khi có Thiếu Úy Vĩnh Thuận về (1973) thì chỉ có Lê Văn Độ và tôi là dân Huế chính cống bị thuyên chuyển lên Pleiku cùng một lúc. Trong Phi Đoàn thường hay trêu chọc hai thằng tôi là dân 'Huệ' mà bày đặt đi Không Quân và bay 'Khù-Trục'(?) không trách gì bị tống cổ lên ‘Plề-Cu’ vì thiếu ‘piston’.

Hồi đó trong 3 phi đoàn khu trục còn lại của KQVNCH 514, 518, và 530 hầu hết là người Nam và Bắc. Hai phe nầy kèn cựa, chia bè chia đảng, đòn phép ganh đua, và chơi nhau hằng ngày. Chỉ có mấy thằng Huế thủ phận con rơi con rớt, làm... thinh và suốt ngày làm... tầm bậy cho đỡ buồn!

Bên cạnh người bạn nối khố trong quân trường của Lê Văn Độ là Nguyễn Văn Trường ra, tôi cũng là một thằng bạn Huế gốc 7/68 chí thân của Lê Văn Độ trong cuộc đời bay bổng. Độ đã gắn liền với tôi từ khi ở trong trường bay cho đến khi Độ được hạ huyệt.

Độ cùng đi Mỹ và được sắp xếp vào cùng 'K' Flight với tôi ở trường bay Keesler AFB (MS.). Ra trường Độ có điểm 'academic' và tôi có điểm 'flying' cao của 'K' Flight vì vậy hai thằng là hai candidates duy nhất của 'K' Flight... bị chọn đi Skyraider, vì hồi 1969-1970 US-Navy bắt đầu chính thức chuyển giao toàn thể Skyraider cho USAF và USAF phải mở trường tự huấn luyện Skyraider cho USAF ở ngay tại S.O.G Center / Hurburt Field (Eglin AFB, FL.).

Bốn khóa trước bọn tôi (71-01; 71-02; 71-03; 71-04 - See attached pictures) Pilot bị ra cỏ và đập máy bay khá nhiều cho nên trước ngày Class 71-05 bọn tôi mãn khóa, Col. Yeally và Staff của ông ta đích thân bay qua Keesler AFB cho đám T-28 Instructor Pilots biết là Trường Huấn Luyện A-1 không muốn nhận graduated-pilot 'yếu' nữa!

Trong dịp nầy, để khuyến khích và động viên tinh thần, đám nầy cho tôi và Độ leo lên 'tham quan' hai chiếc AD-5 đồ sộ, dơ bẩn và 'ugly SOB' bám đầy dầu mỡ mà họ đã dùng để bay qua Keesler. Không ngờ họ đã làm tôi và Độ quá 'khủng' và muốn đái trong quần luôn! Lòng buồn rười rượi vì cái dơ dáy và uy hiếp tinh thần của chiếc A-1. Không biết với trình độ hơi non tay lái, mới ra trường của mình, rồi có thể chế ngự được con 'trâu điên' nầy chăng?! (USAF called it 'A DUMP TRUCK')

Về Pleiku Tôi còn được 'adopted' bởi các tay đàn anh cô hồn các đảng: Phạm-Văn-Thặng 'Fulro', T.K.Long 'Lăng Quăng', Phúc 'Gandhi', Phùng 'Django' v.v... để tiếp tục quậy và say sưa vô kỷ luật. Còn Độ thì rất hiền từ và chừng mực. Độ cực kỳ chăm chỉ trong việc bay bổng. Trời xấu là thầy mang DASH-1 ra thầy đọc để toan tính học thuộc lòng luôn cả Emergency Procedure section. Tuy khác lối sống nhưng hai thằng tôi rất thương nhau. Có lẽ là vì có chung Huế và 7/68 DNA, và ở chung phòng.

Độ và tôi 'shared' chung một phòng ở cư xá của Mỹ để lại cho PĐ-530 trên đồi cao phía Bắc của căn cứ nhìn xuống phi-đạo, ATC Tower và Tarmac của 2 Phi Đoàn Trực-Thăng.

Đêm đầu tiên sau khi Độ bị tai nạn (See the last attached picture) người ta đem bộ đồ bay của Độ từ bệnh xá về quăng vào dưới gường của Độ. Mùi khét của da thịt Độ làm tôi không thể nào ngủ được, phải vác mền mùng qua phòng của Tiến Chỉnh ngủ.

Sáng sớm hôm sau, được tin Độ đã qua đời tại Long Bình, Phi Đoàn Trưởng Tr/T Mười 'Lung' kêu tôi vào và yêu cầu tôi đem thi hài Độ về Huế để lo một đám tang thật đàng hoàng cho Độ.

Tr/T Mười 'Lung' bảo: "Tôi biết ông anh rể của anh là Đ/T Tôn-Thất-Khiên làm Tỉnh-Trưởng Huế. Anh ráng làm đám tang cho anh Độ càng trịnh trọng chừng nào càng tốt chừng đó để gia đình của người anh em Jupiter chúng ta được vui lòng và thỏa nguyện".

Ông thân sinh của Độ rất thật thà và chất phát giống như Độ. Khi tôi gặp và xin được biết ước nguyện của gia-đình thì ông cụ cho biết chỉ muốn lúc hạ huyệt có được một dàn kèn của ban quân-nhạc tiểu-khu thổi bài Chiêu Hồn Tử Sĩ.

Ngày hạ huyệt 2 GMC với đầy đủ kèn trống của Tiểu Khu đã làm ông cụ và bà con ở Bao-Vinh/Huế hãnh diện và vui lòng.

Kỷ niệm buồn vẫn không bao giờ quên: Những chiều gần Tết thật vắng lặng ở mọi công sở ở Biên Hòa. Tôi theo trực thăng đưa thi hài của Độ về Tử Sĩ Đường Tân Sơn Nhất. Từ Burn-Treatment-Center của Long-Bình Hospital, Trực Thăng dropped tôi xuống Tarmac Khu-Trục A-1 ở Biên Hòa AFB để tôi mượn xe Honda của 1 người bạn Khu-Trục 518 chạy đi ra Tòa Hành Chánh Tỉnh làm giấy khai tử cho Độ trước khi đưa Độ về Huế (vì Độ chết ở Long Bình chứ không phải ở Pleiku).

Phòng sở nào cũng có bàn thờ cúng kiến ngay trước cửa để rước Ông Bà về ăn Tết, chạy tìm người muốn hụt hơi mới xong 1 giấy khai tử có đủ chữ ký cho Độ.

Tối hôm đó tôi ngồi với ông cụ của Độ trong Tử-Sĩ-Đường cho tới 9:00 đêm. Thật là rợn người, không chữ nghĩa nào có thể diễn tả được cái khung cảnh ghê rợn nầy và lòng thương con vô bờ bến của một người cha.

Sau khi đem quan tài vào Tử-Sĩ-Đường, quan tài được kê lên hai 'con ngựa' gỗ thô sơ, một bát nhang và hai cây đèn cầy ở hai đầu quan tài. Mọi người đều biến mất chỉ còn lại hai bác con, một ông già đang đau khổ và một thằng pilot Khu-Trục, tay dao tay súng, trông oai phong lẫm liệt nhưng nhát gan, thỏ đế, sợ ma còn hơn sợ cọp.

Thú thật hôm đó tôi cũng không biết phải giải quyết sự việc bằng cách nào!? Rồi sau đây mình phải làm gì nữa đây?? (lần đầu tiên trong đời lo cho 1 thằng bạn mới chết, không biết mô tê gì cả!!!!).

Hôm đó quan tài của Độ là chiếc quan tài duy nhất trong căn phòng rộng lớn và ma quái của Tử-Sĩ-Đường. Sự đơn lẻ càng làm cho không khí lạnh lẽo hơn. Tiếng gió hú qua mái hiên ở đằng sau nhà càng làm cho khung cảnh thêm ghê rợn như những chuyện ma quái mà tôi đã đọc lúc còn nhỏ.

Hai Bác Con ngồi trong bóng tối của Tử-Sĩ-Đường. Cuối cùng tôi phải lên tiếng và hỏi: "Thưa Bác, Độ về tới đây là cũng tạm thời xong được một bước trước khi chiều mai máy bay C-123 đưa Độ về Huế. Vậy con xin mời bác về nhà con ở Chợ Lớn ngủ qua đêm rồi ngày mai mình trở lại".

Ông Cụ cám ơn và từ chối: "Tui muốn ngồi ở chỗ ni với con tui cho hết đêm ni, để hắn nằm một mình lạnh lẽo không đành. tui không đi mô cả. Tết 'dức' tui hiểu, anh đi về với gia đình đi rồi mai trở vô với tui cũng được".

Trong những tình huống như thế nầy mới thấy được tình cha thương con. Tôi chạy vội ra ngoài cổng Phi-Long mua một ổ bánh mì thịt và một chai xá xị cho ông cụ của Độ trước khi thắp một nén nhang khấn thầm với Độ: "Độ, mầy biết tau ham chơi nhưng tau đã đưa mầy về tới đây rồi, mầy cho tau chạy về thăm nhà một chút trong ba ngày Tết rồi ngày mai tao vô lại với mầy".

Vái xong ba vái là tôi đi lui, trông ông cụ ngồi một mình bên quan tài con, tôi không thể nào đủ mạnh để cầm lại nước mắt của mình vì kính phục lòng hy sinh và tình cao cả của Cha và Con.

Ngày hôm sau, sau khi giải thích cho ông cụ, tôi cho phép đục 4 lỗ trên quan tài (để release the pressure trong hòm lúc lên cao độ) để đưa Độ về Phú-Bài Huế và gác hòm 3 ngày 3 đêm trước khi hạ huyệt.

Có thể nói Độ là người bạn 7/68 mà tôi đã có duyên gắn bó nhất và dành nhiều thì giờ nhất cho nhau trong cuối cuộc đời binh nghiệp. Nhân một lỗi nhỏ trong bài viết của Hà 'cà-chớn' Trần-Ngọc Nguyên-Vũ mà tôi lại có dịp ngồi ôn lại một kỷ niệm xưa cùng chia sẻ với anh em. Cũng là một cái duyên để nhớ bạn cũ.

Phạm Minh Xuân














Lê Văn Độ (người đứng bìa phải) và bạn bè



Lê Văn Độ (người đứng bìa trái) và bạn bè



Máy bay của Độ bị tai nạn ở phi trường Cù Hanh, Pleiku.




Tuesday, May 14, 2013

FINAL SKYRAIDER UNITS

BYRON E HUKEE




ACKNOWLEDGEMENTS

I owe special thanks to Wayne Mutza, Warren Thompson and Robert F Dorr for allowing me access to their extensive image collections. A special thank you to William Reeder who shared his story of experiences as a POW in Vietnam. Special thanks to Chris Hobson, author of Vietnam Air Losses, for making his work available to the A-1 Skyraider Association in its entirety. Also thanks to the following individuals who shared images and/or Skyraider stories with me – Jake Ludwig, Bill Stevens, Tom Bigelow, Herb Tidwell, Rob Cole, Richard Keogh, Don Wilkerson, Peter Bird, Andy Renshaw, Mike Roberts and William H Mogan. USAF Skyraider pilots who shared stories and images were Don Emigholz, Joe Saueressig, Herb Meyr, Dick Foreman, Ed Homan, Jim Partington, Don Engebretsen, Charlie Holder, Randy Scott, Gary Koldyke, Larry Haight, Jim Madden, John Larrison, Win DePoorter, Tom Dwelle, Dick Allen, John Lackey (via Roy Lackey), Mike Maloney, Alan Young, Davis Glass, Shelley Hilliard, Bill Prescott, ‘Jink’ Bender and Ron Smith.

I am indebted to the following VNAF Skyraider pilots who shared images and stories – Nguyen Quoc Dat, Pham Minh Xuan, Ho Van Hien, Nguyen Tranh Trung, Duong Thieu Chi, Nguyen Dinh Xuan, Nguyen Chuyen, Nguyen Quoc Thanh, Hoi B Tran, Thai Ngoc Truong Van, Nguyen Lanh and Son Bach. I sincerely apologise to those who assisted me but are not listed here. Your help was greatly appreciated.

FINAL SKYRAIDER UNITS

Although the arrival of A-37s in South Vietnam in increasing numbers from late 1968 allowed the VNAF to convert three of its A-1 units to the Cessna attack aircraft, the Skyraider continued to play a key role in supporting the ARVN through to the communist invasion of April 1975. USAF A-1s also remained active in the SAR role until they were finally withdrawn in late 1972, the few surviving examples being passed on to the VNAF.


Two 530th FS A-1Hs, both transfers from the USAF, await clearance for takeoff at Pleiku. Still wearing their USAF-style tail markings (minus the two letter Air Force code), these Skyraiders formed the core of the 530th fleet. A-1H 139779 and A-1J 142014 were lost on 27 May 1972 and 30 September 1971, respectively (Peter Bird)

Although the Dragonfly was seen as the future light attack platform for the South Vietnamese, proof that there was still a role for the venerable A-1 in-theatre came in 1970 when the 530th FS became the last Skyraider squadron to form within the VNAF. Based at Pleiku, the nucleus of the unit was provided by an A-1 detachment from the 524th FS that had operated from the base until the squadron had converted to the A-37 in early 1969. The Skyraider’s presence at Pleiku had been further reduced in November of that year when the USAF’s 6th SOS, which had flown from the base since early 1968, was inactivated. The ARVN was anxious to keep a strong CAS presence in Military Region II, however, so the 530th FS was formed in 1970 with surplus A-1s following the conversion of two units to the A-37.

Although the squadron boasted a highly experienced leadership cadre (CO, vice commander and operations officer), most of its pilots were young aviators who had been trained at Hurlburt Field within the previous year. The number of experienced A-1 pilots in the VNAF had been significantly reduced following their conversion onto the A-37 at Da Nang, Nha Trang and Binh Thuy.

As with other VNAF Skyraider squadrons, the normal duty cycle within the 530th FS was two days on, one day off. That is to say pilots would fly for two days and perform other squadron duties every third day. Missions were flown mostly during daylight hours and rarely at night. Although the addition of the BOBS (beacon-only bombing system) allowed bombs to be dropped in either bad weather and/or at night, still the vast majority of A-1 sorties were performed during the day.


1Lt Pham Minh Xuan poses on the wing of his A-1 prior to flying a mission in 1971. Note the close detail of the 'production’ ‘Daisy Cutter’ fuse extenders. The nose fuse at the end of the extender gave this weapon dual fuse redundancy. Clearly visible is the fuse arming wire that went through the fuse ‘propeller’ to be held by a fahnestock clip. When the bomb left the aircraft, the wire (retained by the aircraft) pulled out of the fuse propeller, allowing the latter to spin until it armed the weapon (Pham Xuan)

One such mission saw the 530th called on to support a fire support base (FSB) that was being overrun by the enemy. ‘Jupiter 11’, a flight of two Skyraiders flown by Maj Thanh and his wingman, 1Lt Pham Minh Xuan, were scrambled from Pleiku after the call had come in from FSB ‘Charlie’ that it needed help fast. The famed Red Berets of the ARVN’s 11th Airborne Battalion were just holding on in the face of stiff opposition from a larger enemy force. ‘We were airborne within ten minutes of the scramble notice being received’, Pham recalled. ‘My leader, Maj Thanh, was flying an A-1E loaded with six Mk 82s, and I had six cans of 500-lb napalm on my A-1H. We each had a full load of 20 mm ammunition’.

The target was less than 100 nautical miles north of Pleiku, so ‘Jupiter 11’ was soon over the FSB. The FAC was orbiting nearby, and he briefed the ‘Jupiters’ on the situation. They were instructed to monitor FM radio channel 47.0 for possible information from the Red Berets on the ground. The plan was for ‘Jupiter 11’ to drop his bombs first, followed by ‘Jupiter 12’ with his napalm. After Thanh was finished with his attack, the ground team came on the radio. Pham described what happened next;

‘As soon as the FAC gave me my instructions, I heard the Red Berets say that they were being overrun by the enemy – they were coming in human-wave attacks across the perimeter of FSB “Charlie”. The enemy was coming up the hill from the south, so I was instructed to drop my napalm no closer than the perimeter of the FSB. My first pass was a little long, so I manoeuvred for my second run. This was much better than the first one, and the Red Berets were yelling for more of the same. My last pass was a repeat of this heading, which turned out to be a big mistake. I felt and heard enemy fire hit the front of my A-1 as I pulled off target.’

Pham climbed as hard as he could for altitude, checking his engine instruments at the same time while starting a turn toward Dak To airfield, which was only a short distance away; ‘I noticed that the CHT [cylinder head temperature] was in the red and the engine was running rough, so I pulled the throttle back a bit. I was at about 3000 ft above the ground, and I could no longer maintain altitude, so I pushed the throttle up again. I was able to level off, but I could now see smoke and smelled hydraulic fluid.

‘There were two helicopters on the runway at Dak To, so Thanh buzzed them with his gear and flaps down and they got the message and cleared the area. I slid back the canopy to get rid of the smoke, and that helped a lot. The gear would not come down, so I prepared for a gear up landing. I held the aircraft at 90 knots until I flared for landing, and came down with a thud. I was surprised at how quickly the aircraft stopped. I jumped out of the A-1 as fast as I could just in case it caught fire. Later, I had a good look at the aircraft, and discovered several holes in the front of the engine that had been made by 12.7 mm AAA. I had had a lucky escape, as had the Red Berets at FSB Charlie.’

VALOUR BEYOND THE COCKPIT

Many flying stories begin when the pilot takes off, en route to some dangerous target far behind enemy lines. This one commenced when two men were shot down in the midst of the enemy. Neither knew the other, but they were soon to become united in a struggle for survival. Capt Bill Reeder was a US Army AH-1G Cobra pilot supporting the ARVN Ranger outpost at Ben when he was downed by enemy fire on 9 May 1972. His co-pilot/gunner, Lt Tim Conry, died from his injuries shortly after the helicopter had crashed. Earlier, he and Reeder had witnessed the downing of an A-1 Skyraider near Polei Klang, but they had been denied permission to attempt to rescue the pilot. The latter, Lt Nguyen Dinh Xanh of the 530th FS, had been supporting ARVN forces at Polei Klang, an outpost west of Kontum near the Cambodian border, when his A-1 was hit by AAA.


Four pilots from the 530th FS at Pleiku show their individuality by wearing four different flight suits. As for me, I definitely would not want to be wearing orange in a combat zone! (Pham Xuan)

‘I had a badly broken back, burns on the back of my neck, a piece of shell fragment sticking out of my ankle and superficial wounds on my head and face’, Reeder recalled. ‘I was in the midst of many hundreds of attacking enemy soldiers’.

After evading the enemy for three days, Reeder was captured and herded to a prison camp carved out of the jungle just inside Cambodia. ‘There were South Vietnamese military [prisoners], there were indigenous mountain people referred to as Montagnards who had allied with US Special Forces and there were two Americans, myself and another helicopter pilot, Wayne Finch, captured a month earlier’, Reeder explained. ‘There were at least 200 prisoners altogether’.

Xanh had also been captured following his shoot down on 9 April 1972. He too had been force-marched through the jungle to this very same camp. Reeder described his meeting with Xanh on 2 July 1972, nearly three months after he had been captured.

‘My weight went from around 190 pounds to somewhere around 120 in just a few weeks. I was skin hanging on bone, with a beard that grew very long over time. I did not shave for more than five months. I received no medical attention at all, and no one fared any better than me. One day I was taken outside my cage and lined up with a group of prisoners. There were about 25 South Vietnamese, as well as Wayne and myself. I would soon learn that one of our group was a pilot who had been shot down on the same day as me in an A-1 Skyraider at Polei Klang – the very same Vietnamese pilot I had been denied the chance of rescuing. His name was Lt Xanh.’

The group was told by one of their guards that they would be taken to an improved camp where they would receive medical treatment. ‘You all should try hard to make it’, the guard told them. ‘It should only take about 11 days’. Reeder described his mindset as they set off down the trail; ‘If you did not continue to march, you would die. In normal life you have to take some overt action in order to die. You have to kill yourself. As a prisoner of war, under these circumstances, that truth is reversed. You have to reach deep within yourself and struggle each day to stay alive. Dying is easy. Just relax, give up and peacefully surrender, and you will die. Many did. They died in that first jungle prison camp, and they died along the trail. Some would complete a day’s journey and then lie down to die. Others collapsed on the trail and could not continue.’

The journey to the next camp lasted three months, the march covering several hundred miles until it finally ended in Hanoi. ‘It was a nightmare, a horrid soul wrenching nightmare’, Reeder remembered. ‘Every step, every day wracked my body with pain. My infections became worse and disease settled in me. I was near death. The pain kept my face contorted and a cry shrieking within every corner of my consciousness, pain that was burning a blackened scar deep into the centre of my very being. And there was Lt Xanh, suffering badly himself, but always encouraging me, always helping as he could’.

Lt Xanh became a part of Reeder’s life at this moment. ‘On the worst day of my life I fought so very hard. I faltered. I dug deeper. I staggered on. I faltered again, and I struggled more, and I reached deeper yet, and I prayed for more strength. And I collapsed, and I got up and moved along, and I collapsed again, and again. I fought, fought with all I had in my body, my heart and my soul. And I collapsed, and I could not get up. I could not will myself up. I was at the end of my life. And the enemy came.

‘The guard looked down on me. He ordered me up. He yelled at me. I could not. I was done. And then there was Xanh, looking worried, bending toward me, the guard yelling to discourage his effort. He persisted in moving to help me. The guard yelled louder. Xanh’s face was set with determination, and in spite of whatever threats the guard was screaming, he pulled me up onto his frail, weak back, pulled my arms around his neck and clasped my wrists together. He then pulled me along with my feet dragging on the ground behind him. Xanh dragged me along for the rest of that day. Occasionally, he was briefly relieved by another prisoner, but it was Xanh who carried the burden that day. It was Xanh who lifted me from death, at great risk to his own life, and carried me, and cared for me, until we completed that long day’s journey’.

The following morning Reeder’s ordeal was not over. Despite the glimmer of hope provided by the previous day’s miracle, he fell from a log and lay in a shallow river. This time Xanh was forbidden to help him, he and the other prisoners being marched away at gunpoint. ‘They were marched away with the rest of our prisoner group. I never saw Xanh again’, Reeder explained.

However, for some reason his captors decided to give Reeder penicillin injections to treat his massive infections and, after a time, he was able to stand, and even walk again. ‘I was put back on the trail, this time travelling with groups of North Vietnamese soldiers moving north, and accompanied by my own personal guard. It continued to be an agonising trip, but the worst was behind me’.

Reeder eventually reached Hanoi and ended up in the infamous ‘Hanoi Hilton’ POW camp. He survived against all odds to be released at the end of the war. Later, having made contact with ex-VNAF personnel who had made it to the USA, he enquired about Xanh. Initially, Reeder struggled to locate him until he finally found a website that served as a gathering forum for former VNAF A-1 pilots. Eventually, through this site, he was reunited with Xanh; ‘At our first encounter, I looked upon an older man, but instantly I saw the soul of my beloved friend in his eyes. I’d not seen him since I’d watched him forced across that log and marched away, knowing that I owed him

my life, or what there was left of it. But there in the jungle I made a promise to myself and to Xanh. Since he’d worked so hard to help me live through those two toughest days of my life, I felt like I owed him my very best to try to do my part to make his efforts worthwhile – to survive the rest of my journey and somehow get home at the end of it. What he’d done for me saved my life, and Xanh’s selfless actions gave me even more determination to overcome everything between me and the freedom that waited at the end of my captivity.

‘Nguyen Dinh Xanh has always been a great man, and now he is a great American. I am so thankful he was my friend when I needed him, and I am grateful I have found my friend again.’ Xanh’s A-1 was one of 23 Skyraiders lost by the 530th FS between 1970 and mid-1973 – data does not extend beyond the latter date, so its losses were almost certainly higher. The unit also had six pilots killed or listed as missing in action.

In October 1974, with shortages of fuel, ordnance and spare parts, the 530th FS was ordered to cease operations. Pleiku AB was evacuated by the VNAF on 17 March 1975. Left behind were 21 A-1s and 18 other VNAF aircraft, all of which were in flyable condition.

Source:

USAF AND VNAF
A-1 SKYRAIDER UNITS
OF THE VIETNAM WAR
BYRON E HUKEE
© Osprey Publishing

Courtesy of Pham Minh Xuan


Wednesday, March 13, 2013

Một Thời Để Nhớ

Vedeo and Slideshow by Phạm Minh Xuân



VNAF FIGHTER SLIDE SHOW


VNAF A-1 Skyraider in Action