Tùy bútPhạm Minh XuânĐể nhớ về 7/68 Lê Văn Độ
Tôi là chứng nhân của những chuyện xẩy ra ở Phi Đoàn 530 thời 1971-1974. Trong Phi Đoàn 530 trước khi có Thiếu Úy Vĩnh Thuận về (1973) thì chỉ có Lê Văn Độ và tôi là dân Huế chính cống bị thuyên chuyển lên Pleiku cùng một lúc. Trong Phi Đoàn thường hay trêu chọc hai thằng tôi là dân 'Huệ' mà bày đặt đi Không Quân và bay 'Khù-Trục'(?) không trách gì bị tống cổ lên ‘Plề-Cu’ vì thiếu ‘piston’. Hồi đó trong 3 phi đoàn khu trục còn lại của KQVNCH 514, 518, và 530 hầu hết là người Nam và Bắc. Hai phe nầy kèn cựa và chơi nhau hằng ngày. Chỉ có mấy thằng Huế thủ phận con rơi con rớt, làm... thinh và suốt ngày làm... tầm bậy cho đỡ buồn! Bên cạnh người bạn nối khố trong quân trường của Lê Văn Độ là Nguyễn Văn Trường ra, tôi cũng là một thằng bạn Huế gốc 7/68 chí thân của Lê Văn Độ trong cuộc đời bay bổng. Độ đã gắn liền với tôi từ khi ở trong trường bay cho đến khi Độ được hạ huyệt. Độ cùng đi Mỹ và được sắp xếp vào cùng 'K' Flight với tôi ở trường bay Keesler AFB (MS.). Ra trường Độ có điểm 'academic' và tôi có điểm 'flying' cao của 'K' Flight vì vậy hai thằng là hai candidates duy nhất của 'K' Flight... bị chọn đi Skyraider, vì hồi 1969-1970 US-Navy bắt đầu chính thức chuyển giao toàn thể Skyraider cho USAF và USAF phải mở trường tự huấn luyện Skyraider cho USAF ở ngay tại S.O.G Center / Hurburt Field (Eglin AFB, FL.). Bốn khóa trước bọn tôi (71-01; 71-02; 71-03; 71-04 - See attached pictures) Pilot bị ra cỏ và đập máy bay khá nhiều cho nên trước ngày Class 71-05 bọn tôi mãn khóa, Col. Yeally và Staff của ông ta đích thân bay qua Keesler AFB cho đám T-28 Instructor Pilots biết là Trường Huấn Luyện A-1 không muốn nhận graduated-pilot 'yếu' nữa! Trong dịp nầy, để khuyến khích và động viên tinh thần, đám nầy cho tôi và Độ leo lên 'tham quan' hai chiếc AD-5 đồ sộ, dơ bẩn và 'ugly SOB' bám đầy dầu mỡ mà họ đã dùng để bay qua Keesler. Không ngờ họ đã làm tôi và Độ quá 'khủng' và muốn đái trong quần luôn! Lòng buồn rười rượi vì cái dơ dáy và uy hiếp tinh thần của chiếc A-1. Không biết với trình độ hơi non tay lái, mới ra trường của mình, rồi có thể chế ngự được con 'trâu điên' nầy chăng?! (USAF called it 'A DUMP TRUCK') Về Pleiku Tôi còn được 'adopted' bởi các tay đàn anh cô hồn các đảng: Phạm-Văn-Thặng 'Fulro', T.K.Long 'Lăng Quăng', Phúc 'Gandhi', Phùng 'Django' v.v... để tiếp tục quậy và say sưa vô kỷ luật. Còn Độ thì rất hiền từ và chừng mực. Độ cực kỳ chăm chỉ trong việc bay bổng. Trời xấu là thầy mang DASH-1 ra thầy đọc để toan tính học thuộc lòng luôn cả Emergency Procedure section. Tuy khác lối sống nhưng hai thằng tôi rất thương nhau. Có lẽ là vì có chung Huế và 7/68 DNA, và ở chung phòng. Độ và tôi 'shared' chung một phòng ở cư xá của Mỹ để lại cho PĐ-530 trên đồi cao phía Bắc của căn cứ nhìn xuống phi-đạo, ATC Tower và Tarmac của 2 Phi Đoàn Trực-Thăng. Đêm đầu tiên sau khi Độ bị tai nạn (See the last attached picture) người ta đem bộ đồ bay của Độ từ bệnh xá về quăng vào dưới gường của Độ. Mùi khét của da thịt Độ làm tôi không thể nào ngủ được, phải vác mền mùng qua phòng của Tiến Chỉnh ngủ. Sáng sớm hôm sau, được tin Độ đã qua đời tại Long Bình, Phi Đoàn Trưởng Tr/T Mười 'Lung' kêu tôi vào và yêu cầu tôi đem thi hài Độ về Huế để lo một đám tang thật đàng hoàng cho Độ. Tr/T Mười 'Lung' bảo: "Tôi biết ông anh rể của anh là Đ/T Tôn-Thất-Khiên làm Tỉnh-Trưởng Huế. Anh ráng làm đám tang cho anh Độ càng trịnh trọng chừng nào càng tốt chừng đó để gia đình của người anh em Jupiter chúng ta được vui lòng và thỏa nguyện". Ông thân sinh của Độ rất thật thà và chất phát giống như Độ. Khi tôi gặp và xin được biết ước nguyện của gia-đình thì ông cụ cho biết chỉ muốn lúc hạ huyệt có được một dàn kèn của ban quân-nhạc tiểu-khu thổi bài Chiêu Hồn Tử Sĩ. Ngày hạ huyệt 2 GMC với đầy đủ kèn trống của Tiểu Khu đã làm ông cụ và bà con ở Bao-Vinh/Huế hãnh diện và vui lòng. Kỷ niệm buồn vẫn không bao giờ quên: Những chiều gần Tết thật vắng lặng ở mọi công sở ở Biên Hòa. Tôi theo trực thăng đưa thi hài của Độ về Tử Sĩ Đường Tân Sơn Nhất. Từ Burn-Treatment-Center của Long-Bình Hospital, Trực Thăng dropped tôi xuống Tarmac Khu-Trục A-1 ở Biên Hòa AFB để tôi mượn xe Honda của 1 người bạn Khu-Trục 518 chạy đi ra Tòa Hành Chánh Tỉnh làm giấy khai tử cho Độ trước khi đưa Độ về Huế (vì Độ chết ở Long Bình chứ không phải ở Pleiku). Phòng sở nào cũng có bàn thờ cúng kiến ngay trước cửa để rước Ông Bà về ăn Tết, chạy tìm người muốn hụt hơi mới xong 1 giấy khai tử có đủ chữ ký cho Độ. Tối hôm đó tôi ngồi với ông cụ của Độ trong Tử-Sĩ-Đường cho tới 9:00 đêm. Thật là rợn người, không chữ nghĩa nào có thể diễn tả được cái khung cảnh ghê rợn nầy và lòng thương con vô bờ bến của một người cha. Sau khi đem quan tài vào Tử-Sĩ-Đường, quan tài được kê lên hai 'con ngựa' gỗ thô sơ, một bát nhang và hai cây đèn cầy ở hai đầu quan tài. Mọi người đều biến mất chỉ còn lại hai bác con, một ông già đang đau khổ và một thằng pilot Khu-Trục, tay dao tay súng, trông oai phong lẫm liệt nhưng nhát gan, thỏ đế, sợ ma còn hơn sợ cọp. Thú thật hôm đó tôi cũng không biết phải giải quyết sự việc bằng cách nào!? Rồi sau đây mình phải làm gì nữa đây?? (lần đầu tiên trong đời lo cho 1 thằng bạn mới chết, không biết mô tê gì cả!!!!). Hôm đó quan tài của Độ là chiếc quan tài duy nhất trong căn phòng rộng lớn và ma quái của Tử-Sĩ-Đường. Sự đơn lẻ càng làm cho không khí lạnh lẽo hơn. Tiếng gió hú qua mái hiên ở đằng sau nhà càng làm cho khung cảnh thêm ghê rợn như những chuyện ma quái mà tôi đã đọc lúc còn nhỏ. Hai Bác Con ngồi trong bóng tối của Tử-Sĩ-Đường. Cuối cùng tôi phải lên tiếng và hỏi: "Thưa Bác, Độ về tới đây là cũng tạm thời xong được một bước trước khi chiều mai máy bay C-123 đưa Độ về Huế. Vậy con xin mời bác về nhà con ở Chợ Lớn ngủ qua đêm rồi ngày mai mình trở lại". Ông Cụ cám ơn và từ chối: "Tui muốn ngồi ở chỗ ni với con tui cho hết đêm ni, để hắn nằm một mình lạnh lẽo không đành. tui không đi mô cả. Tết 'dức' tui hiểu, anh đi về với gia đình đi rồi mai trở vô với tui cũng được". Trong những tình huống như thế nầy mới thấy được tình cha thương con. Tôi chạy vội ra ngoài cổng Phi-Long mua một ổ bánh mì thịt và một chai xá xị cho ông cụ của Độ trước khi thắp một nén nhang khấn thầm với Độ: "Độ, mầy biết tau ham chơi nhưng tau đã đưa mầy về tới đây rồi, mầy cho tau chạy về thăm nhà một chút trong ba ngày Tết rồi ngày mai tao vô lại với mầy". Vái xong ba vái là tôi đi lui, trông ông cụ ngồi một mình bên quan tài con, tôi không thể nào đủ mạnh để cầm lại nước mắt của mình vì kính phục lòng hy sinh và tình cao cả của Cha và Con. Ngày hôm sau, sau khi giải thích cho ông cụ, tôi cho phép đục 4 lỗ trên quan tài (để release the pressure trong hòm lúc lên cao độ) để đưa Độ về Phú-Bài Huế và gác hòm 3 ngày 3 đêm trước khi hạ huyệt. Có thể nói Độ là người bạn 7/68 mà tôi đã có duyên gắn bó nhất và dành nhiều thì giờ nhất cho nhau trong cuối cuộc đời binh nghiệp. Nhân một lỗi nhỏ trong bài viết của Hà 'cà-chớn' Trần-Ngọc Nguyên-Vũ mà tôi lại có dịp ngồi ôn lại một kỷ niệm xưa cùng chia sẻ với anh em. Cũng là một cái duyên để nhớ bạn cũ. Phạm Minh Xuân Lê Văn Độ (người đứng bìa phải) và bạn bè Lê Văn Độ (người đứng bìa trái) và bạn bè Máy bay của Độ bị tai nạn ở phi trường Cù Hanh, Pleiku. |
Wednesday, July 24, 2019
Nhớ Bạn Cũ
Sunday, July 16, 2017
Một Tình Bạn Không Còn Nữa
Nguyễn GiangHọc Trung Học Chu văn An, Toàn có người bạn thân tên Sơn. Sơn ở trọ trên 1 căn gác sau đường Nguyễn Thông. Bà mẹ Sơn thỉnh thoảng có đến chắc để cung cấp tiền bạc cho chàng. Không bao giờ chàng nghe Sơn nói về hoàn cảnh gia đình, dù 2 thằng rất thân thiết với nhau. Chàng thường đến nhà trọ của Sơn để cùng Sơn đánh đàn ca hát nghêu ngao. Căn gác này gần 1 cái ngõ nối ra đường xe lửa. Trong ngõ là 1 xóm chị em ta, nhưng đầu ngõ lại có trụ sở của Hội Khổng Tử, thế mới " chuế" chứ! Những lúc cơ thể thanh niên đòi hỏi, chàng thường vào đây. Có 1 em tên Thuý, da trắng, có nụ cười tươi, thân hình đẹp như các kiều nữ Playboy mê chàng lắm, đãi ngộ chàng đặc biệt. Em dành thời gian cho chàng đến cả tiếng, mặc bà chủ động réo gọi ngoài cửa. ( thuộc loại trẻ đẹp và đắt khách ở đấy nên em không sợ bà chủ động tí nào đôi khi em còn cự lại bà chủ động nữa ). Thuý ân cần rũ bỏ y phục cho chàng, cởi giày cho chàng trước khi vào cuộc. Tàn cuộc, Thuý lại ân cần mặc quần áo lại cho chàng, đi giầy lại cho chàng, nhất định không để chàng làm những việc đó. Đôi lúc, chàng " mơ làm triệu phú, cứu vớt gái bơ vơ ", lôi em ra khỏi nơi ô trọc này để sống với em cả đời. Nàng sẽ quên quá khứ nhơ bẩn để trở thành 1 người vợ ngoan hiền. Nàng sẽ săn sóc chàng còn tuyệt diệu hơn bây giờ nữa vì có thêm yếu tố nữa là lòng nhớ ơn người đã ra tay cứu vớt mình. Toàn thương xót Thuý lắm, nhưng chàng chỉ là 1 sinh viên tay trắng, lấy em thì 2 đứa sống thế nào, cạp đất mà ăn à? Đúng là mơ mộng nhất thời của tuổi trẻ! Với Sơn, thường gặp gỡ nhau, nhưng chàng không rõ mấy về tư tưởng chính trị của Sơn. Thỉnh thoảng, Sơn cho rằng những lời công kích của chính phủ VNCH là không có cơ sở, chính quyền CS ở ngoài Bắc đâu có muốn bần cùng hoá nhân dân, có chính phủ nào muốn người dân khổ đâu? Chính Tổng thống Diệm là người không thi hành hiệp định Geneve ấn định Tổng Tuyển Cử để thống nhất 2 miền Nam Bắc! Càng ngày Sơn càng lịm sâu vào những ý tưởng mơ hồ, như cho rằng Lý đông A, đảng trưởng Đại Việt Duy Dân chính là Hồ chí Minh! Dạo ấy, chàng có đọc những truyện ngắn của Nguyễn mạnh Côn như Người lái đò trên giòng sông Nhuệ, những truyện dài như Kỳ Hoa Tử.., Võ Phiến với Thác đổ sau nhà, Mưa đêm cuối năm. .., cùng với những lời kể của bố chàng, đã khắc sâu trong đầu óc chàng sự chối từ chủ nghĩa CS. Bởi thế, nghe Sơn bàn luận, chàng không đồng ý chút nào.Nhưng tình bạn đã khiến chàng bỏ qua những dị biệt đó. Cho đến 1 ngày, Sơn rời nhà đi chừng 1 tiếng, thấy chiếc va li của bạn mình khép vội có lòi ra mảnh vải đỏ, chàng mở va li ra và tá hoả tam tinh! Trong va li có cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và đầy sách vở CS, có cả Cương Lĩnh của Mặt Trận Giải Phóng, những truyền đơn hô hào khởi nghĩa. .. Khi về nhà, Sơn hoàn toàn không biết khám phá của chàng, cho chàng biết sẽ lên Blao gặp Sao Trên Rừng ( nhà thơ Nguyễn Đức Sơn) để tìm đường vào bưng trong những tháng tới. Tháng Sáu 1975, Sơn đột ngột xuất hiện tại nhà chàng với áo xanh nước biển, nón cối và dép râu, cho biết đã theo Cách Mạng được trên 6 năm, hiện đang là Cán bộ Chính Trị của Tiểu Đoàn. Bà cụ chàng mừng lắm, vì bà luôn coi bạn con mình như con mình. Vả lại, trong thời buổi hỗn quân hỗn quan này, sự hiện diện của 1 cán bộ Cách mạng trong nhà , một gia đình có tới 5 người con trong quân đội và Cảnh sát Quốc gia, cũng khiến bà đôi chút yên tâm trước những con mắt rình rập của hàng xóm. Chàng và Sơn cùng lang thang trên đại lộ Nguyễn Huệ để Sơn mua vài tập nhạc của TCS, rồi vào quán kem Mai Hương. Chàng nhận xét Sơn đã thay đổi nhiều. Trong đối thoại, Sơn hay dùng những xưng hô: CHÚNG TÔI và CÁC ANH, như muốn cố tình phân định vị trí giữa chàng và anh ta. Sau hơn 1 tiếng đồng hồ cãi nhau về sự khác biệt của 2 chế độ Quốc gia và Cộng .Sản, chàng ngao ngán khi nhận ra rằng đây không phải là 1 người bạn đã từng sáng tác những bài tình ca với chàng hồi nào, mà đã biến thái thành 1 cán bộ CS thuần túy. Sơn hăng hái nói: _ Các anh cứ nói chúng tôi không có tự do. Ngoài Bắc chúng tôi có cả vài chục tờ báo, báo nào cũng hay cả! Toàn ngắt lời ngay: _ Nhưng mà tờ nào cũng có luận điệu giống nhau, phải không? Sơn thấy không, trong Nam này rất nhiều báo, mỗi tờ có lập trường riêng, chính phủ cũng không can thiệp. Tạp chí Vấn Đề của Thế Uyên đấy, ca tụng cả HCM là ngọn hải đăng trường kỳ của vô sản quốc tế mà có sao đâu? Xã hội CS kỳ quặc quá, cứ cố trở thành 1 xã hội của con ong cái kiến. Quyền tư hữu là 1 động lực cho sự phát triển của xã hội, bỏ thế nào được. Tư hữu là bản năng của con người ngay từ khi lọt lòng mẹ ! Xem thằng nhỏ 7,8 tuổi mà coi, đồ chơi nó chơi chán chê rồi, quẳng vao góc phòng nhưng hễ có đứa trẻ khác ́mó vào là giật lại ngay! Lý thuyết của các anh viễn mơ quá, phản lại bản chất tự nhiên của con người! _ Nhưng chủ nghĩa của chúng tôi thắng các anh, quân đội của chúng tôi thắng các anh, điều đó chứng tỏ chúng tôi đúng! _ Sơn này, bạn lý luận kỳ cục quá! Sự thắng bại trong 1 cuộc chiến không chứng tỏ được giá trị của 1 chủ thuyết cũng như giá trị của những con người theo chủ thuyết đó. Chúng mình là bạn của nhau từ hồi nhỏ, ông không phải dùng lối nói " chúng tôi, các anh " để phân biệt nhau! Sơn nhỏ nhẹ: _ Chừng 1 tháng nữa, Toàn đi học tập rồi sẽ thấy! Toàn cất cao giọng: _ Học tập hay không cũng chẳng thay đổi được suy nghĩ của tôi! Nói thật, bạn thay đổi quá ! Thôi thì đừng bạn bè gì nữa, tôi và ông ở 2 vị trí khác nhau lắm rồi! Toàn ngao ngán thực sự . Thế là mình mất 1 người bạn rồi, chàng nghĩ! Kể từ đó cho đến ngày vào tù, chàng không gặp lại Sơn nữa và chàng cũng chẳng muốn gặp làm gì! Toàn coi trọng tình bạn vô cùng. Tình bạn, theo chàng là những tương đồng về lý tưởng, sở thích, hiểu biết và những điều nữa nối kết hai người bạn! Họ chẳng dấu gì với nhau, tâm đồng đến nỗi người này chưa nói hết câu, người kia đã hiểu bạn mình muốn gì! Thật sung sướng cho những người có bạn thân, đó chính là tặng phẩm của cuộc đời! Sự cuốn hút của chủ nghĩa CS quả là ghê gớm. Từ 1 chàng trai trẻ thích văn nghệ viễn mơ, Sơn đã mau chóng trở thành 1 cán bộ CS luôn phát ra những lời ca tụng chế độ. Khi nghe Toàn hỏi về những sự việc như Cải cách Ruộng Đất ở ngoài Bắc, Thảm sát Tết Mậu Thân ở Huế, Pháo Kích Tiểu Học Cai Lậy ở miền Nam.., Sơn chỉ đưa ra 1 luận điệu: " Để đạt được chiến thắng, chúng tôi không thể cân nhắc phương tiện!" Trước kia, Toàn vẫn nghĩ sự tuyên truyền tuy có hấp lực thật, nhưng dù sao cũng không thể thay đổi được bản tính con người. Sự mê muội với chủ nghĩa chỉ là nhất thời, bản tính con người vẫn không sao xoá bỏ được. Nhưng trước mặt Sơn, người bạn rụt rè, mơ mộng khi xưa, nay đang thao thao bất tuyệt ca tụng cái chế độ khốn nạn,. Toàn phân vân:" Hay là mình lầm rồi? Chủ nghĩa, đi kèm với bạo lực, có thể thay đổi cả bản tính chứ! Bằng chứng là đây, Sơn bây giờ chẳng còn có gì giống Sơn ngày xưa cả!" Trong vô số những quyết định trong đời, quyết định chấm dứt tình bạn của Toàn chính là 1 quyết định mà chàng ít hối tiếc nhất! Nguyễn Giang
|
Saturday, July 19, 2014
Bún Bò Bà Đào
Bún Bò Bà Đào - Đà Nẵng(Đường Trần Bình Trọng - Trước Năm 1975)Tùy Bút Trần Đình Phước
Kính dâng lên hương hồn ông bà Đào. Kính tặng quý niên trưởng, các chiến hữu thuộc Trung Tâm 2 Kiểm Báo và Sư Đoàn I Không Quân, Đà Nẵng. Xin được gửi đến bà con Đà Nẵng thân yêu của tôi. Trước năm 1975. Đà Nẵng có rất nhiều nhà hàng, quán ăn. Nhưng nói đến món bún bò, thì những người có tâm hồn ăn uống, chắc chắn cũng đôi lần ghé thăm quán bún bò của Bà Đào! Có lẽ lâu ngày thành thói quen, bà con gọi tên quán là Bún Bò Bà Đào? Đơn vị tôi ở mãi tận Sơn Trà. Muốn đi sang Đà Nẵng, phải đi bộ hay quá giang xe nhà binh ra ngã ba Sơn Trà. Sau đó đón xe Lam hay xe đò đến bến đò An Hải. Từ đây đi phà sang bên kia sông Hàn, mới tới phố Đà Nẵng. Mặc dù cách xa nhiều cây số, phải mất khá nhiều thời gian. Nhưng tuần nào tôi cũng ghé Bún Bò Bà Đào một hoặc hai lần thì mới mãn nguyện. Dẫu cho hôm đó trời mưa to, gió lớn, bão bùng cũng không bao giờ tôi lùi bước trước nguy nan. Đơn giản một điều: “chỉ vì ghiền bún bò.” Quán Bún Bò Bà Đào nằm trên đường Trần Bình Trọng, gần Café Rừng với mấy cái mả đá màu nâu ở đầu đường. Quán chỉ bắt đầu bán vào khoảng 3 giờ chiều. Thực khách ghiền bún bò thường phải đợi rất lâu, vì quán lúc nào cũng đông khách đứng sắp hàng chờ. Nếu không chờ được thì đi các quán khác cũng nằm gần đó. Bà Đào có nét lai Ấn Độ, các cô con gái của bà cô nào nhìn cũng đều có nét duyên dáng, dễ thương, trong đó có một em tên Đ. là đẹp nhất, theo con mắt thơ ngây chỉ biết nhìn thôi chẳng biết gì của tôi! Lúc đó em Đ. đang học lớp Đệ Tam Trường Trung Học Tư Thục Phan Thanh Giản, tọa lạc kế bên trường Trung Học Công Lập Phan Chu Trinh. Nghe nói em Đ. bây giờ đã lập gia đình. Tháng 10, năm 1992. Trước khi rời Sài Gòn đi định cư Hoa Kỳ theo chương trình H.O. Tình cờ tôi gặp em ở gần Bệnh Viện Nguyễn Văn Học, Bình Thạnh, Gia Định. Hai đứa chỉ kịp vẫy tay, vẫy tay chào nhau một lần cuối, không kịp một lời từ giã. Nổi tiếng nhất của quán Bún Bò Bà Đào là món giò móng. Tôi đã chết mê, chết mệt vì nó. Đặc biệt là món ớt sa tế và ớt ngâm giấm, mà không nơi nào có thể sánh bằng. Tô bún bò nóng hổi, vừa ăn, vừa húp, vừa thổi, vị nồng nồng, cay cay làm nước mắt ràn rụa. Nhất là những hôm trời se se lạnh, có một chút mưa bụi vào những tháng cuối năm thì thật tuyệt vời. Nhiều khi trong bóp hết tiền, cầm thẻ lương chưa được, hoặc Sĩ Quan Thủ Quỹ Sư Đoàn I Không Quân là Trung úy HBT, hay Sĩ Quan Kế Toán là Thiếu úy TVH, biệt danh “Thượng Toạ Thích Tâm Cự”, có chuyện bực trong mình không chịu phát sớm. Lúc đó gương mặt giả bộ mếu máo, năn nỉ, xin bà cho ăn thiếu. Bà lúc nào cũng vui vẻ chấp thuận cho một tín đồ trung thành bún bò, mà không thắc mắc gi cả! Thường thường, mỗi tô chỉ được trang điểm một cái móng. Riêng tôi, thì được bà luôn luôn cho ba, hoặc bốn móng, mà chỉ tính giá bình thường. Có lẽ bà thương hại cho một tín đồ bún bò đã bỏ công khổ nhọc lặn lội trèo xe Lam từ Sơn Trà, vượt bến đò Sông Hàn, và cuốc bộ mấy chục phút mới đến được quán của bà! Tôi tu ở núi Sơn Trà gần 3 năm. Tính tới, tính lui trên hai bàn tay thì tôi đã thưởng thức món bún bò giò móng không biết bao nhiêu lần! Khi có lệnh thuyên chuyển về Sài Gòn, tôi cứ lưỡng lự, vì nghĩ rằng sẽ không còn được tiếp tục thưởng thức Bún Bò Bà Đào nữa! Cũng như mỗi lần ngồi ăn bún bò, được ngắm các con gái bà mà biết bao chàng trai tứ xứ bị ngây ngất, trong số đó có các bạn khoá 7/68 KQ và tôi. Cuối cùng, tôi cũng phải giã từ Đà Nẵng thân yêu mà trong lòng bịn rịn, với một nỗi buồn khôn nguôi. Không biết là tại thèm bún bò, hay nhớ các cô con gái xinh đẹp của bà? Năm 1979, khi được về phép từ Nông Trường Đức Huệ, Long An, nằm giáp biên giới Cambodia. Tình cờ, tôi gặp bà Đào và em Đ. đang đứng ở bến xe đò Chợ Lớn Mới. Tôi chạy đến chào. Bà nhận ra tôi ngay, dù da dẻ tôi lúc này đen đúa, ẩm mốc mùi phèn. Tóc tai thì dài bờm xờm, lưng đeo balo dính đầy bùn đất, hai tay khệ nệ hai cái “len” là dụng cụ dùng để đào đất đắp nền nhà và đào kinh. Nhìn tôi giống như tài tử đóng vai chánh trong phim “Zimbo” về thành. Bà cho biết bây giờ đã giải nghệ bún bò và chuyển sang đi buôn chuyến Đà Nẵng và Sài Gòn. Bà cũng vừa mới tạm nghỉ đi buôn vì bị thương, sau tai nạn lật xe đò ở Cam Ranh. Tôi cho bà địa chỉ nhà tôi. Thỉnh thoảng bà và em Đ. vào Sài Gòn giao hàng đều ghé nhà thăm tôi. Lúc này tôi đã là “Thầy Giáo, Tháo Giầy” bất đắc dĩ. Dạy học để che mắt thế gian! Mỗi lần ghé thăm, bà thường cho tôi mấy chục tré. Đây là một đặc sản của Đà Nẵng, giống như nem Thủ Đức, nhưng có bỏ thêm riềng thái chỉ, trộn nhiều tỏi, được gói vuông vắn trông rất đẹp mắt. Trước năm 1975, Tré Bà Đệ sản xuất ở số 53 Nguyễn Hoàng, gần Bệnh Viện Đa Khoa Đà Nẵng nổi tiếng là ngon nhất, với hương vị đặc trưng không nơi nào bắt chước được. Bà kể cho tôi nghe khoảng giữa tháng 3 năm 1975, trong lúc tình hình chiến sự Vùng I đã bắt đầu giai đoạn căng thẳng, nhờ quen biết với một Trưởng Phi Cơ của một phi đoàn thường biệt phái công tác ở vùng I và II. Một nửa gia đình bà đã theo phi cơ AC-119K vào Sài Gòn trước. Bà liền thuê một căn nhà ở vùng Lăng Cha Cả để tạm trú. Nhưng sau đó bà quyết định không di tản ra nước ngoài và quay trở về sum họp cùng toàn thể gia đình. Bà cùng các con tiếp tục khôi phục lại quán bún bò. Được một thời gian ngắn, phải tự động dẹp quán, vì tình hình kinh tế khó khăn, bà con phải lo chạy gạo, kiếm cơm hàng ngày chưa đủ, thì làm sao dám ăn với uống ở ngoài được; chưa kể thuế má cao và nhiều phức tạp khác. Nên bà và các con chuyển sang đi buôn chuyến Đà Nẵng – Sài gòn và ngược lại. Gần Tết năm Nhâm Tuất 1982, bà và em Đ. vào Sài Gòn để giao hàng và mua sắm. Không hiểu sao lần này bà ghé nhà tôi lâu hơn. Tình cờ bà hỏi tôi: ”Cháu định bao giờ mới lập gia đình. Khi nào cháu lấy vợ nhớ báo cho bác biết, để bác mừng nghen.” Im lặng một hồi lâu. Tôi trả lời bà: “Thưa bác, cháu không hộ khẩu, không nghề nghiệp, còn tương lai đang ở cuối nẻo đường hầm thì làm sao nuôi nổi vợ con, mà bày đặt đám cưới, với đám xin. Ai mà gả con cho cháu là họ muốn làm khổ đời con gái họ. Chắc cháu ở vậy suốt đời thôi!“ Đến đây bà không nói gì thêm, kéo tay em Đ. đứng dậy và chào tôi ra về. Đó cũng là lần cuối tôi gặp bà. Tôi muốn viết thêm nhiều tình tiết éo le nữa, nhưng xin tạm dừng ở đây. Theo lời mấy bà con Đà Nẵng ở San José cho biết, bà đã mất cách đây vài năm. Họ cũng cho biết thêm, một trong các con gái của bà hiện đang tiếp tục nối nghiệp bún bò. Tôi tin rằng dù chất lượng đến đâu, cũng không bao giờ còn đầy đủ hương vị đậm đà như thuở nào. Mỗi lần ở San José có họp mặt đồng hương Quảng Nam Đà Nẵng, tôi đều đến tham dự, tự coi mình là đứa con thân yêu của Đà Nẵng. Tôi xem Đà Nẵng là quê hương thứ hai của tôi. Một nơi đã cho tôi nhiều kỷ niệm đẹp. Đặc biệt món giò móng của Bún Bò Bà Đào, cũng như tuổi trưởng thành của tôi cũng bắt đầu từ nơi đây. Hy vọng một ngày rất gần, tôi sẽ về thăm Đà Nẵng và sẽ tìm mọi cách để tìm gặp các con của bà, chắc là bây giờ có người đã lên chức bà nội, hay bà ngoại rồi. Tôi muốn được đốt một nén nhang để nhớ đến bà, một bà Mẹ Đà Nẵng thân yêu, mà món giò móng độc đáo do bà nấu. Tôi không bao giờ tìm lại được ở bất cứ nơi chân trời góc bể nào, cho dù tôi có tiền muôn, bạc biển... Cứ hai năm tôi về Sài Gòn một lần để thăm thân mẫu tôi đã ngoài 90 tuổi đang sống ở đây. Bà nằm một chỗ đã lâu, sau khi bị té gãy xương hông. Bà may mắn được các con cháu gần bên thay phiên chăm sóc, lo lắng, nên tuổi già cũng phần nào đỡ tủi thân. Mỗi lần tôi về thăm, bà dường như khoẻ hẳn ra. Về Sài Gòn lần này, ngoài việc thăm thân mẫu, tôi nhất quyết đi Đà Nẵng như đã dự tính. Thứ nhất là thăm lại môt nơi đã mang đến cho tôi biết bao nhiêu kỷ niệm khó quên trong đời quân ngũ. Thứ hai là được đốt một nén nhang trước bàn thờ bà Đào như lòng đã tự hứa. Tuy nhiên, về đến nơi bề bộn đủ thứ việc, do đó tôi không thể rời Sài Gòn được và trong lòng tôi rất áy náy, bức rức vì không thực hiện đúng như lời đã hứa. Còn một tuần trước khi tôi về lại San José, hôm đó là cuối tháng 7, năm 2008, bầu trời Sài Gòn mây mù và u ám, thỉnh thoảng có môt chút mưa bụi rơi nhẹ. Tôi đạp xe đạp rời nhà từ Tân Định đến Công Viên Tao Đàn để xem các em Hướng Đạo Việt Nam sinh họat ở đây. Hướng Đạo là một phong trào giáo dục rất hiệu quả, đào tạo thanh thiếu niên trở thành những công dân tốt và hữu dụng cho đất nước, các hướng đạo sinh biết rèn luyện cho chính bản thân, cũng như giúp ích cho xã hội mà trước năm 1975 từ Sài Gòn đến hầu hết các tỉnh, thành phố rất là phổ biến. Một câu nói mà anh chị em Hướng Đạo không bao giờ quên trong đời “Hướng Đạo một ngày, là Hướng Đạo mãi mãi...” Để nhận ra nhau anh chị em hướng đạo chào nhau bằng cách giơ cao bàn tay phải lên, ba ngón giữa thẳng, nhắc nhở Hướng Đạo Sinh về ba điều của lời hứa: “Làm bổn phận đối với Tín Ngưỡng Tâm Linh và Quốc Gia tôi - Giúp đỡ mọi người bất cứ lúc nào - Tuân theo Luật Hướng Đạo”. Ngón tay cái đè lên ngón tay út, ngụ ý rằng người mạnh phải có bổn phận bênh vực, che chở ngưới yếu, kẻ thế cô, người lâm hoạn nạn hoặc đang gặp khó khăn. Ngoài ra, anh chi em Hướng Đạo khi gặp nhau ở bất cứ nơi đâu còn bắt tay trái, vì tay trái là phía của trái tim, để biễu lộ tình cảm thắm thiết, thân thiện giửa tình hướng đạo với nhau và sẵn sàng giúp đỡ nhau khi hữu sự. Sau ngày 30 tháng 4, năm 1975, phong trào hướng đạo hoàn toàn bị triệt để cấm. Hiện nay, chính quyền không cấm và cũng không cho phép chính thức hoạt động. Các đoàn Hướng Đạo thường tập họp ở các công viên trong thành phố để sinh hoạt vào mỗi Chúa Nhật. Nhìn các em hồn nhiên vui đùa, ca hát, tập thắt gút dây, thực tập truyền tin Morse, Sémaphore, cùng các trò chơi lành mạnh khác, tôi như tìm lại được hình ảnh của mình thời thơ ấu, mà tôi tưởng như đã đánh mất từ lâu. Tình cờ, tôi gặp một người đứng kế bên. Qua trao đổi vài câu chuyện xã giao, nghe anh phát âm giọng Đà Nẵng, tôi đến bắt tay chào làm quen. Anh cho biết, hiện đang làm việc ở Đà Nẵng, mấy hôm nay vào Sài Gòn thăm bà chị ruột từ Pháp về, vì bà chị không có nhiều thì giờ ra ngoài nớ. Hôm nay bà chị hẹn gặp ở công viên Tao Đàn, nên đến đây đợi, thấy các em mặc đồng phục, sinh hoạt ngồ ngộ, nên hiếu kỳ đến xem cho biết. Sau đó anh hỏi tôi có biết gì về Đà Nẵng không? Tôi trả lời anh, ngày xưa tôi đã từng phục vụ gần ba năm ở Trung Tâm 2 Kiểm Báo tức Đài Radar Sơn Trà – Đà Nẵng – KBC 6526. Còn được gọi là Panama, Monkey Mountain hay Núi Khỉ, vì nơi đây có rất nhiều khỉ, chúng thường di chuyển từng đàn mấy chục con, đặc biệt là trên mình chúng có những đốm màu xám, nâu, vàng... mà dân địa phương gọi là con Vá Hoàng. Đơn vị tôi đóng trên núi Sơn Trà. Quanh năm, suốt tháng mây mù bao phủ. Có nhiều con suối nhỏ chảy dài từ trên cao xuống, với những cái tên rất thơ mộng: Suối Tình, Suối Mơ, Suối Mộng, Suối Hẹn Hò, Suối Đa Tuyền, Suối Tiếc Thương... Nghe đồn có đôi tình nhân trẻ vì gia đình cấm cản, họ đã đến đây cùng chết, để giữ trọn lời thề chung thủy! Những tháng vào mùa hè, đường đi lên núi, phía bên phải là sườn núi với bông trang nở đỏ rực, còn bên trái là vực sâu, hoa sim tím mọc ngút ngàn, và trên cao ánh nắng mặt trời xuyên qua những lớp sương mù bay lơ lửng, tạo nên một bức tranh thiên nhiên đẹp hữu tình, mà các hoạ sĩ, dù tài ba đến mấy cũng không thể nào vẽ được. Sơn Trà cách Đà Nẵng khoảng hơn 10 cây số đường chim bay. Tuy nhiên, tuần nào tôi cũng đều ghé Bún Bò Bà Đào, để thưởng thức cho bằng được món bún bò đặc biệt này. Chỉ có một lần duy nhất, suốt một tuần lễ tôi phải nằm ở Sơn Trà tử thủ vì trận bão Hester thổi qua Đà Nẵng, trước sinh nhật tôi một ngày. Tôi nhớ hôm đó là ngày Thứ Hai 25 tháng 10, năm 1971. Đây là trận bão lớn nhất chưa từng xảy ra trong vòng 27 năm. Trận bão đã gây thiệt hại vô cùng khốc liệt cho thành phố thân yêu của tôi. Nhiều nhà cửa đổ nát hoang tàn, bay cả nóc, cây cối tróc gốc gãy nghẽn cả đường xá, xe cộ không thể di chuyễn được, mọi sinh hoạt hàng ngày bị tê liệt hoàn toàn, nên tôi đành phải nằm tại phòng ở Sơn Trà ăn mì kim chi Đại Hàn để tưởng nhớ đến Bún Bò Bà Đào và cầu xin ơn trên che chở cho quán của bà, cũng như bà con Đà Nẵng tránh được thiên tai này. Anh cười và nói với tôi “Vậy anh là đệ tử trung thành của bà Đào rồi!” Tôi mới nói với anh, dù bây giờ xa Đà Nẵng đã nhiều năm, bước chân tôi đã đi qua nhiều nơi, thưởng thức biết bao món ngon vật lạ trên cõi đời này, nhưng tôi vẫn không thể quên được hương vị đặc biệt của Bún Bò Bà Đào ngày nào. Tôi hỏi anh có biết bà Đào không? Anh cho tôi biết bà Đào đã mất từ lâu! Nghe đâu khoảng tháng 2, năm 2001. Hiện nay cô con gái út của bà đang là chủ một quán bún bò nằm trên đường NCT, thành phố Đà Nẵng. Quán vẫn lấy tên là Bún Bò Bà Đào. Tôi hỏi thêm “Anh có cách nào giúp để tôi có thể liên lạc được với các con của bà không?” vì tôi không còn nhiều thời gian lưu lại Sài Gòn, và có lẽ khó còn dịp nào khác nữa! Anh bảo tôi chờ một chút. Sau đó lấy điện thoại cầm tay gọi ra Đà Nẵng. Vài phút sau, đứa em gái của anh gọi vào cho biết, vừa mới gọi tới quán bún bò và họ cho số điện thoại của một trong các con của bà đang sinh sống ở Sài Gòn. Thú thật, tôi mừng vô hạn, tưởng chừng như tìm lại được một báu vật đã thất lạc từ lâu! Tôi vội vàng cám ơn anh và gọi ngay số điện thoại mà em gái anh vừa cho. Đầu dây bên kia là một giọng nữ. Cô hỏi “Làm sao tôi có số điện thoại này?” Tôi trả lời “Tôi muốn nói chuyện với con bà Đào, vì tôi là chỗ thân tình với gia đình bà từ lâu.” Cô cho biết tên Đ. Tôi nhận ngay ra một giọng nói rất quen thuộc ngày nào, dù đã nhiều năm xa cách. Tôi giới thiệu tên tôi, nói lên ước nguyện của tôi là muốn được đến đốt nhang trước bàn thờ bà Đào một lần vì nghe bà mất cách đây nhiều năm. Nay có dịp về Sài Gòn, nên phải thực hiện cho được lời đã hứa. Đ. cho tôi địa chỉ ở Cây Quéo - Bình Thạnh. Tôi vội tìm đến nơi ngay chiều hôm đó. Tôi gõ cửa mà trong lòng hồi hộp vô cùng. Một lúc sau, có tiếng lách cách tra vào ổ khóa. Em Đ. ra mở cửa sắt. Em ngước nhìn lên, ngạc nhiên vì không ngờ tôi xuất hiện bất ngờ nơi đây. Cả hai ôm chằm lấy nhau vì quá mừng rỡ. Tôi đã gặp lại em Đ. bằng xương bằng thịt, nét duyên dáng vẫn như thuở nào, dù hương thời gian đã làm em thay đổi rất nhiều. Bao nhiêu năm rồi, chứ đâu phải mới hôm qua? Sau đó em mời tôi đi lên lầu, nơi đây đặt bàn thờ bà, để tôi được đốt một nén nhang cho thoả lòng mong ước từ lâu. Cầm nén nhang trên tay. Tôi chúc Bà được an nghỉ nơi cõi bình yên và khấn nguyện “Xin bà có linh thiêng, hãy phù hộ cho các bạn tôi và tôi, những người đã từng thưởng thức món bún bò độc đáo do bà nấu, luôn luôn an bình trong cuộc sống khó khăn hàng ngày, biết thương yêu và giúp đỡ nhau khi cần thiết.” Tôi kể cho em Đ. nghe, trước khi về thăm Sàigòn, tôi có viết một bài về "Bún Bò Bà Đào" để tặng các bạn tôi, những người trai trẻ trưởng thành trong chiến tranh, từng phục vụ ở vùng địa đầu giới tuyến, với những lần vào sanh ra tử, và đã từng biết hương vị Bún Bò Bà Đào. Ngoài ra, bà Đào còn có những cô con gái thanh tú, đoan trang, trong số đó có em Đ. đang ngồi nói chuyện trước mặt tôi. Em đã làm biết bao đấng anh hùng, hào kiệt khắp nơi một thời ngắm nghía, trong số đó dĩ nhiên là có tôi! Mỗi lần anh chàng nào đến quán, ít ai ăn một tô, thường thường là kêu hai tô. Riêng tôi, ngoài hai tô như thường lệ, tôi còn gọi thêm một tô đặc biệt mang về Sơn Trà, để dành cho sáng mai điểm tâm. Em hỏi vì sao tôi biết Mạ mất. Tôi trả lời là do các bà con Quảng Nam Đà Nẵng nói lại, khi tôi đến tham dự họp mặt đồng hương Quảng Nam Đà Nẵng được tổ chức ở San José. Tôi vẫn mong ước được đốt một nén nhang trước bàn thờ bà để tưởng nhớ đến bà, vì tôi xem bà như bà Mẹ thứ hai trong đời. Em nghe tôi nói, mà hai hàng nước mắt rưng rưng. Tôi vội đưa khăn tay cho em lau. Em nói trong thổn thức "Bây chừ, ước chi Mạ em còn sống để nhìn thấy anh và được nghe những lời anh nói, thì hạnh phúc biết chừng nào!" Sau đó em đã kể cho tôi nghe về những khó khăn, gian truân mà gia đình em đã gặp sau cơn đại hồng thủy. Em nói, thỉnh thoảng bà vẫn nhắc đến tên tôi, không biết bây giờ tôi trôi dạt nơi mô? đã có vợ con gì chưa? hay là trọn kiếp không nhà, mùa đông thiếu chăn êm? Tôi rất mừng, khi được em cho biết bây giờ cả gia đình đều có cuộc sống tương đối ổn định. Tất cả anh chị em đều có công ăn việc làm tốt đẹp, cơ ngơi đàng hoàng. Riêng, người con gái út tên H… đang nối nghiệp bún bò của bà. Quán vẫn được bà con thương tình đến ủng hộ như ngày xưa. Chia tay em về. Trong lòng tôi cảm thấy lâng lâng, thoáng một nỗi buồn man mác. Tôi vừa đi, vừa khẽ hát nho nhỏ trong cơn mưa lất phất của buổi chiều Sài Gòn.
Thuở ấy có em anh yêu cuộc đời, Tôi nguyện trong lòng. Lần tới về Sàigòn, dù bân rộn đến đâu tôi cũng phải đi Đà Nẵng. Tìm đến quán bún bò của con gái bà, để quay về với kỷ niệm ngày nào. Kỷ niệm của một thời hồn nhiên và tuyệt vời nhất, mà bây giờ chỉ còn trong tiềm thức.
Trần Đình PhướcSan José, California 2014 |
Monday, March 10, 2014
Bài Dịch Còn Nợ Thầy
Thú tội với thầy Trần-Trung-Lương tức nhà văn Trà Lũ![]() Tùy bút Trần-Công Anh-Dũng ( Học sinh Chu Văn An 1959-1964 ) - Thầy tới tụi bây ơi! Cả lớp đang ồn ào bỗng tiu nghỉu và tắt lịm theo cách của một quả bóng thình lình bị xì hơi. Chúng tôi, học trò Nhị B6, Chu-Văn-An Saigon, trong tuần thứ hai của niên khoá 1962-1963, đang nhen nhúm hy vọng giáo sư Anh Văn hôm nay... bị ốm vì đã gần 10 phút qua, thầy vẫn chưa đến. Những đứa có đầu óc suy luận kiểu Sherlock Holmes cũng hy vọng thầy nghỉ nhưng đoán là thầy bị hư xe và mắng những đứa hy vọng thầy ốm là một bọn học trò vô ơn, dám trù ẻo thầy! Một đứa gốc Huế vừa từ Đà Lạt chuyển trường vào lớp tôi từ năm ngoái góp thêm hai chữ “đặc sệt” của đất... mè xửng: “Vô hậu!” Trường phái “Sherlock Holmes” kể ra cũng rất có lý, một người cao lớn uy nghi như thầy thật khó mà... bị ốm trừ khi thầy... muốn! (Ước gì thỉnh thoảng thầy... “muốn” như vậy nhỉ!) Thầy vào lớp vừa bước nhanh tới bàn giáo sư vừa phẩy tay cho học trò ngồi xuống và nói một điều hiển nhiên ai cũng biết rổi: “Hôm nay tôi đến muộn” Thầy không nói lý do và chúng tôi, sau hơn một năm sở hữu văn bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp lại thêm cuối năm nay thi Tú Tài I, cũng đủ khôn ngoan để không hỏi, dù miệng đứa nào cũng đều “ngứa” kịch liệt! - Các anh chép bài dịch. Chúng tôi lao xao giở vở, thầy ngồi xuống ghế rút trong cặp ra một quyển sách (nom có vẻ “cổ lỗ sĩ” như bí kíp võ công lâu nay nằm trong thạch động) bàn tay tả giữ gáy sách, tay hữu thầy vung ra một hư quyền vào không khí, đột nhiên quyền biến thành chưởng, chưởng biến thành trảo, trảo biến thành chỉ, chả biết thầy có làm dấu trước hay không mà ngón trỏ thầy ngoéo nghe “xọet” một tiếng quyển “bí kíp” được mở ra và thầy khởi sự đọc thao thao khiến tụi tôi viết lia lịa. Tựa bài: Học Trò Nhớ Ơn Thầy (chấm xuống giòng) Có tiếng xầm xì: Chết cha! Chắc Thầy biết tụi mình trù thầy ốm, thầy cho dịch một bài “morale” dài hai trang! Ông Carnot xưa là một ông quan to nước Pháp (phẩy) - Thưa thầy chữ Carnot viết làm sao ạ?” - Học đến đệ nhị rồi mà không biết viết chữ Carnot à! Xem người bên cạnh. Mạng sườn bên trái, bên phải của tôi cùng lúc bị hai cùi chõ ưu ái hích vào mời mọc; nghe thấy từ bên trái “đây này”, nghe từ bên phải “xem tao nè! Học thầy không tầy học bạn”, một đứa đàng trước... chõ mõm xuống “thế mà cũng hỏi”, đàng sau có tiếng rúc rích vọng lên “đồ ngốc”! Tôi vội vàng copy ngay chữ Carnot vừa lắng nghe xem có đứa nào mắng mình thêm không! May quá! Hết rồi! Như thế là cứ 5 đứa trong lớp tôi thì có một đứa không biết viết chữ Carnot tức là 20% dân số nằm trong category “đồ ngốc”. Tôi ở trong 20% đó, cũng còn đông chán! Không đến nỗi nằm trong “bottom ten” của lớp. Thầy đọc tiếp “một hôm nhân lúc rảnh việc về chơi quê nhà (chấm) Khi ông đi ngang qua trường học ở làng (phẩy) trông thấy ông thầy dạy mình lúc bé (phẩy) bấy giờ đã đầu tóc bạc phơ đang ngồi trong lớp dạy học (chấm). (Ê tụi mày, bao giờ tóc thầy bạc phơ là tao thành quan lớn đấy nhé! – Dễ chỉ có mày mới thành quan lớn hả? – Tụi mày đừng tưởng bở, trông thầy như John Wayne thế kia, cầu cả trăm năm nữa tóc ổng mới bạc!) Thầy đọc đều đều: “Ông ghé vào thăm trường và chạy ngay lại trước mặt thầy giáo, chào hỏi lễ phép mà rằng: “Tôi là Carnot, thầy còn nhớ tôi không?” (Sao học trò lại xưng “tôi” với thầy? Phải xưng “con” chứ – Tại ông ấy là quan lớn thì xưng tôi được rồi -– Hai thằng mày ngốc ngang ngửa với nhau đó! Tây nó không có chữ “con”) Thầy hắng giọng, “mấy anh ngồi gần cửa sao ồn thế?” “Thưa thầy, anh ấy hỏi con chữ Carnot này với chữ Carnot lúc nãy viết có giống nhau không ạ?” Cả lớp được dịp xả “van nín cười”, có đứa tận cuối lớp nhân dịp “đánh hôi”: “Xin thầy cho nó xuống Đệ Tam học lại ạ!” Thầy đọc tiếp, giọng cao hơn để vãn hồi trật tự, “Rồi ông ngoảnh lại khuyên bảo học trò rằng (hai chấm mở ngoặc kép) Ta bình sinh (phẩy) nhất là ơn cha mẹ (phẩy) sau là ơn thầy ta đây (phẩy) vì nhờ có thầy chịu khó dạy bảo ta mới làm nên sự nghiệp ngày nay (chấm hết). Tôi mơ hồ nghĩ rằng phải đóng ngoặc kép trước khi chấm hết nữa mới phải, nhưng thấy hôm nay mình bị mắng... đủ rồi nên không dám mạo hiểm nhắc thầy nữa. Tụi tôi vừa viết vừa ngạc nhiên và thích thú vì câu chuyện trong đề bài ngắn ngủi nhưng súc tích; nội dung khác hẳn những bài khảo sát, dịch xuôi, dịch ngược đã từng có suốt năm Đệ Tam. Tuy thấy lý thú nhưng cũng có băn khoăn vì văn phong nhiều cổ hơn kim không biết tìm câu chữ tiếng Anh tương đương ra sao mà dịch. Trước khi sang bài học về văn phạm, thầy bảo thằng-luôn-mồm-mắng-tôi-“đồ ngốc” đọc lại cho cả lớp dò; thầy tín nhiệm nó vì trong tuần đầu nó đã có dịp trả lời một hai câu thầy hỏi... quá trình độ của chúng tôi! Làm sao báo động được cho thầy biết, nó là thằng “nghịch đồ” vì từ đây về sau nó sẽ ngày đêm “trù” cho thầy mau bạc tóc để nó sớm làm quan lớn. Bài dịch này tuần sau phải nộp cho thầy chấm điểm, nhưng vì là đứa chậm lụt (“đồ ngốc” có... marque déposée mà lỵ!) nên phải lo xa; giờ ra chơi tôi... lễ phép đến hỏi một thằng giỏi kinh khủng khác, thằng này không mắng tôi là “ngốc” ra miệng bao giờ, nhưng sau mỗi lần “giải đáp miễn phí”, nó mắng tôi bằng nụ cười tủm tỉm. Dẫu sao thì cũng đỡ khổ hơn; nghe chửi bằng visual only thì dễ chịu hơn là audio-visual! “Ông Carnot xưa” thì dịch làm sao? Lại còn “về chơi quê nhà” đâu thể dịch là về thăm quê nhà được, đúng không? Còn ba chữ này nữa: “Ta bình sinh...” làm sao dịch đây. Trước khi nhún vai, nó thọc hai tay vào túi quần cho có vẻ Tây rồi phụ đề Việt ngữ: “Ta bình sinh... chưa dịch Luân Lý Giáo Khoa Thư bao giờ!” Lần này nó không tủm tỉm cười mắng khéo tôi là ngốc; chắc hẳn nó cũng chưa biết dịch thế nào thật! Với... nhân duyên vi diệu, hơn 50 đứa chúng tôi từ nhiều... định mệnh khác nhau năm này cùng lọt vào một lớp lãnh chung “cộng nghiệp” phải dịch bài “Ông Carnot xưa...”! (Nhiều phần... bí bẩy còn ba, bí hai còn một... chắc là cũng bí luôn!!!) Nhưng thình lình, cứ như do kết qủa tốt từ những nhân lành chúng tôi rải rác gieo trồng từ kiếp trước, bài dịch này cả lớp tôi... “thoát” không phải nộp, vì tuần lễ sau đó có sự sắp xếp lại Thời Khoá Biểu, thầy qua dạy hai lớp bên cạnh (hiển nhiên vì hai lớp đó... kém Anh Văn hơn lớp tôi nhiều! Hi hi!) chúng tôi có giáo sư Anh Văn khác vị này “chuyên trị” các bài comprehension rất đắc dụng cho kỳ thi Tú Tài I của chúng tôi cuối niên khoá, nhưng xin để kể vào dịp khác. Thầy trong “episode” này là Giáo Sư Trần–Trung–Lương. Từ bấy đến giờ đã bao nhiêu năm trôi qua cùng với việc đời nương dâu bãi biển, Thầy không còn dạy học nữa mà lâu nay ung dung nhàn tản vẩy bút làm gió làm mưa một cõi Canada mênh mông và đem niềm vui đến cho Cộng Đồng Người Việt khắp cùng hải ngoại qua những hài văn... “vui không chịu được” trên các báo chí, websites Việt Ngữ cũng như qua các tuyển tập Truyên Ngắn, Truyện Cười đã xuất bản. Thầy tha thiết yêu mến quê hương, lấy tên làng Trà Lũ, tên sông Trà Lũ quê Thầy làm bút hiệu. Chuyện Thầy kể rạt rào tình cảm yêu mến đất đai con người quanh Thầy xưa cũng như nay; văn chương của Thầy như dòng sông chảy vừa vui nhộn vừa hiền hoà, miệt mài và bất tận. Cầu mong sức khỏe của Thầy cũng bền bỉ như giòng Trà Lũ. Thấy ảnh Thầy qua truyền thông hải ngoại, tóc Thầy đã bạc nhiều nhưng tôi chắc rằng chưa có đứa “Carnot Việt Nam” nào của lớp tôi đến trình thưa: “Thầy còn nhớ con không? Con là...” Chắc đứa nào cũng còn hãi, sợ Thầy nhớ ra bài “Translate into English: Học Trò Nhớ Ơn Thầy” chưa nộp. Trần-Công Anh-Dũng |
Videos Phụ Chú
Nhà văn Trà Lũ sẽ ra mắt hai tác phẩm mới "Đất Quê Hương II" và "600 Chuyện Cười".
Phóng viên Hà Giang Người-Việt TV phỏng vấn nhà văn Trà Lũ nhân dịp chương trình ra mắt sách của nhà văn Trà Lũ tại phòng sinh hoạt Nhật báo Người-Việt ngày 15 tháng 2 năm 2014.
Chương trình ra mắt sách của nhà văn Trà Lũ tại phòng sinh hoạt Nhật báo Người-Việt ngày 15 tháng 2 năm 2014. (Nhận thấy có bạn TCAD trong đám khán thính giả.) |
Tuesday, February 25, 2014
Nhớ Bạn Cũ
Tùy bútPhạm Minh XuânĐể nhớ về 7/68 Lê Văn Độ
Tôi là chứng nhân của những chuyện xẩy ra ở Phi Đoàn 530 thời 1971-1974. Trong Phi Đoàn 530 trước khi có Thiếu Úy Vĩnh Thuận về (1973) thì chỉ có Lê Văn Độ và tôi là dân Huế chính cống bị thuyên chuyển lên Pleiku cùng một lúc. Trong Phi Đoàn thường hay trêu chọc hai thằng tôi là dân 'Huệ' mà bày đặt đi Không Quân và bay 'Khù-Trục'(?) không trách gì bị tống cổ lên ‘Plề-Cu’ vì thiếu ‘piston’. Hồi đó trong 3 phi đoàn khu trục còn lại của KQVNCH 514, 518, và 530 hầu hết là người Nam và Bắc. Hai phe nầy kèn cựa, chia bè chia đảng, đòn phép ganh đua, và chơi nhau hằng ngày. Chỉ có mấy thằng Huế thủ phận con rơi con rớt, làm... thinh và suốt ngày làm... tầm bậy cho đỡ buồn! Bên cạnh người bạn nối khố trong quân trường của Lê Văn Độ là Nguyễn Văn Trường ra, tôi cũng là một thằng bạn Huế gốc 7/68 chí thân của Lê Văn Độ trong cuộc đời bay bổng. Độ đã gắn liền với tôi từ khi ở trong trường bay cho đến khi Độ được hạ huyệt. Độ cùng đi Mỹ và được sắp xếp vào cùng 'K' Flight với tôi ở trường bay Keesler AFB (MS.). Ra trường Độ có điểm 'academic' và tôi có điểm 'flying' cao của 'K' Flight vì vậy hai thằng là hai candidates duy nhất của 'K' Flight... bị chọn đi Skyraider, vì hồi 1969-1970 US-Navy bắt đầu chính thức chuyển giao toàn thể Skyraider cho USAF và USAF phải mở trường tự huấn luyện Skyraider cho USAF ở ngay tại S.O.G Center / Hurburt Field (Eglin AFB, FL.). Bốn khóa trước bọn tôi (71-01; 71-02; 71-03; 71-04 - See attached pictures) Pilot bị ra cỏ và đập máy bay khá nhiều cho nên trước ngày Class 71-05 bọn tôi mãn khóa, Col. Yeally và Staff của ông ta đích thân bay qua Keesler AFB cho đám T-28 Instructor Pilots biết là Trường Huấn Luyện A-1 không muốn nhận graduated-pilot 'yếu' nữa! Trong dịp nầy, để khuyến khích và động viên tinh thần, đám nầy cho tôi và Độ leo lên 'tham quan' hai chiếc AD-5 đồ sộ, dơ bẩn và 'ugly SOB' bám đầy dầu mỡ mà họ đã dùng để bay qua Keesler. Không ngờ họ đã làm tôi và Độ quá 'khủng' và muốn đái trong quần luôn! Lòng buồn rười rượi vì cái dơ dáy và uy hiếp tinh thần của chiếc A-1. Không biết với trình độ hơi non tay lái, mới ra trường của mình, rồi có thể chế ngự được con 'trâu điên' nầy chăng?! (USAF called it 'A DUMP TRUCK') Về Pleiku Tôi còn được 'adopted' bởi các tay đàn anh cô hồn các đảng: Phạm-Văn-Thặng 'Fulro', T.K.Long 'Lăng Quăng', Phúc 'Gandhi', Phùng 'Django' v.v... để tiếp tục quậy và say sưa vô kỷ luật. Còn Độ thì rất hiền từ và chừng mực. Độ cực kỳ chăm chỉ trong việc bay bổng. Trời xấu là thầy mang DASH-1 ra thầy đọc để toan tính học thuộc lòng luôn cả Emergency Procedure section. Tuy khác lối sống nhưng hai thằng tôi rất thương nhau. Có lẽ là vì có chung Huế và 7/68 DNA, và ở chung phòng. Độ và tôi 'shared' chung một phòng ở cư xá của Mỹ để lại cho PĐ-530 trên đồi cao phía Bắc của căn cứ nhìn xuống phi-đạo, ATC Tower và Tarmac của 2 Phi Đoàn Trực-Thăng. Đêm đầu tiên sau khi Độ bị tai nạn (See the last attached picture) người ta đem bộ đồ bay của Độ từ bệnh xá về quăng vào dưới gường của Độ. Mùi khét của da thịt Độ làm tôi không thể nào ngủ được, phải vác mền mùng qua phòng của Tiến Chỉnh ngủ. Sáng sớm hôm sau, được tin Độ đã qua đời tại Long Bình, Phi Đoàn Trưởng Tr/T Mười 'Lung' kêu tôi vào và yêu cầu tôi đem thi hài Độ về Huế để lo một đám tang thật đàng hoàng cho Độ. Tr/T Mười 'Lung' bảo: "Tôi biết ông anh rể của anh là Đ/T Tôn-Thất-Khiên làm Tỉnh-Trưởng Huế. Anh ráng làm đám tang cho anh Độ càng trịnh trọng chừng nào càng tốt chừng đó để gia đình của người anh em Jupiter chúng ta được vui lòng và thỏa nguyện". Ông thân sinh của Độ rất thật thà và chất phát giống như Độ. Khi tôi gặp và xin được biết ước nguyện của gia-đình thì ông cụ cho biết chỉ muốn lúc hạ huyệt có được một dàn kèn của ban quân-nhạc tiểu-khu thổi bài Chiêu Hồn Tử Sĩ. Ngày hạ huyệt 2 GMC với đầy đủ kèn trống của Tiểu Khu đã làm ông cụ và bà con ở Bao-Vinh/Huế hãnh diện và vui lòng. Kỷ niệm buồn vẫn không bao giờ quên: Những chiều gần Tết thật vắng lặng ở mọi công sở ở Biên Hòa. Tôi theo trực thăng đưa thi hài của Độ về Tử Sĩ Đường Tân Sơn Nhất. Từ Burn-Treatment-Center của Long-Bình Hospital, Trực Thăng dropped tôi xuống Tarmac Khu-Trục A-1 ở Biên Hòa AFB để tôi mượn xe Honda của 1 người bạn Khu-Trục 518 chạy đi ra Tòa Hành Chánh Tỉnh làm giấy khai tử cho Độ trước khi đưa Độ về Huế (vì Độ chết ở Long Bình chứ không phải ở Pleiku). Phòng sở nào cũng có bàn thờ cúng kiến ngay trước cửa để rước Ông Bà về ăn Tết, chạy tìm người muốn hụt hơi mới xong 1 giấy khai tử có đủ chữ ký cho Độ. Tối hôm đó tôi ngồi với ông cụ của Độ trong Tử-Sĩ-Đường cho tới 9:00 đêm. Thật là rợn người, không chữ nghĩa nào có thể diễn tả được cái khung cảnh ghê rợn nầy và lòng thương con vô bờ bến của một người cha. Sau khi đem quan tài vào Tử-Sĩ-Đường, quan tài được kê lên hai 'con ngựa' gỗ thô sơ, một bát nhang và hai cây đèn cầy ở hai đầu quan tài. Mọi người đều biến mất chỉ còn lại hai bác con, một ông già đang đau khổ và một thằng pilot Khu-Trục, tay dao tay súng, trông oai phong lẫm liệt nhưng nhát gan, thỏ đế, sợ ma còn hơn sợ cọp. Thú thật hôm đó tôi cũng không biết phải giải quyết sự việc bằng cách nào!? Rồi sau đây mình phải làm gì nữa đây?? (lần đầu tiên trong đời lo cho 1 thằng bạn mới chết, không biết mô tê gì cả!!!!). Hôm đó quan tài của Độ là chiếc quan tài duy nhất trong căn phòng rộng lớn và ma quái của Tử-Sĩ-Đường. Sự đơn lẻ càng làm cho không khí lạnh lẽo hơn. Tiếng gió hú qua mái hiên ở đằng sau nhà càng làm cho khung cảnh thêm ghê rợn như những chuyện ma quái mà tôi đã đọc lúc còn nhỏ. Hai Bác Con ngồi trong bóng tối của Tử-Sĩ-Đường. Cuối cùng tôi phải lên tiếng và hỏi: "Thưa Bác, Độ về tới đây là cũng tạm thời xong được một bước trước khi chiều mai máy bay C-123 đưa Độ về Huế. Vậy con xin mời bác về nhà con ở Chợ Lớn ngủ qua đêm rồi ngày mai mình trở lại". Ông Cụ cám ơn và từ chối: "Tui muốn ngồi ở chỗ ni với con tui cho hết đêm ni, để hắn nằm một mình lạnh lẽo không đành. tui không đi mô cả. Tết 'dức' tui hiểu, anh đi về với gia đình đi rồi mai trở vô với tui cũng được". Trong những tình huống như thế nầy mới thấy được tình cha thương con. Tôi chạy vội ra ngoài cổng Phi-Long mua một ổ bánh mì thịt và một chai xá xị cho ông cụ của Độ trước khi thắp một nén nhang khấn thầm với Độ: "Độ, mầy biết tau ham chơi nhưng tau đã đưa mầy về tới đây rồi, mầy cho tau chạy về thăm nhà một chút trong ba ngày Tết rồi ngày mai tao vô lại với mầy". Vái xong ba vái là tôi đi lui, trông ông cụ ngồi một mình bên quan tài con, tôi không thể nào đủ mạnh để cầm lại nước mắt của mình vì kính phục lòng hy sinh và tình cao cả của Cha và Con. Ngày hôm sau, sau khi giải thích cho ông cụ, tôi cho phép đục 4 lỗ trên quan tài (để release the pressure trong hòm lúc lên cao độ) để đưa Độ về Phú-Bài Huế và gác hòm 3 ngày 3 đêm trước khi hạ huyệt. Có thể nói Độ là người bạn 7/68 mà tôi đã có duyên gắn bó nhất và dành nhiều thì giờ nhất cho nhau trong cuối cuộc đời binh nghiệp. Nhân một lỗi nhỏ trong bài viết của Hà 'cà-chớn' Trần-Ngọc Nguyên-Vũ mà tôi lại có dịp ngồi ôn lại một kỷ niệm xưa cùng chia sẻ với anh em. Cũng là một cái duyên để nhớ bạn cũ. Phạm Minh Xuân Lê Văn Độ (người đứng bìa phải) và bạn bè Lê Văn Độ (người đứng bìa trái) và bạn bè Máy bay của Độ bị tai nạn ở phi trường Cù Hanh, Pleiku. |
Sunday, February 23, 2014
Chén Rượu Đêm Giao Thừa
Trần Ngọc Nguyên Vũ
Để tưởng nhớ về 7/68KQ Lê Văn Độ, một trong "Ngũ-Thập-Tam Thái-Dương-chi-bảo" của vùng trời Tây-Nguyên ngày nào...
"Rót cho nghiêng dải giang-hà Trần Ngọc Nguyên Vũ |
Rời khỏi phòng hành-quân của phi-đoàn để ra phi-cơ, Đại-Úy Hai vỗ vai Thiếu-Uý Độ nói đùa: - Bữa nay là ngày ông Táo về trời, cẩn thận nghe chú mày, đừng để tao phải tiễn mày theo ông Táo đó. Độ nhe răng cười: - Hì… hì… bom đạn vô tình, hơi đâu mà lo chuyện đời lính trận. Nhưng tui là dân miền Tây, nếu phải tiễn tui, ông nhớ đi một cặp "Đậu Nành" Cần-Thơ cho ấm lòng người chiến-sỹ đó nghe… Cả hai ông phi-công khu-trục của phi-đoàn 530 Thái-Dương cùng cất tiếng cười vang rồi leo lên hai chiếc AD6 trang bị đầy bom đạn…
Hai chiếc phi-cơ nổ máy, lầm lỳ di-chuyển vào đậu song song trên phi-đạo. Hai ra hiệu cho Độ rồi nhả chân thắng và từ từ đẩy tay ga lên vị thế cất cánh. Chiếc phi-cơ lao mình về phía trước. Một luồng gió giật nổi lên như muốn bứng chiếc phi-cơ ra lề cỏ. Hai kềm cứng chân đạp để giữ thăng bằng, rồi gọi số hai: - Thái-Dương 32 coi chừng gió giật mạnh bên cánh phải. - Thái-Dương 32 hiểu. Chiếc AD6 của Độ chưa kịp nhấc bánh đáp đã vặn mình qua bên trái, đập mạnh trên lề cỏ, cầy lên một đường thẳng khoảng 50 thước rồi quay ngang trên mặt phi-đạo và bùng cháy. Có mấy trái bom văng ra khỏi phi-cơ, lăn trên mặt nhựa của sân bay. Những trái còn lại dính hai bên cánh, chập chờn ẩn hiện sau đám lửa, và cột khói phủ quanh chiếc khu-trục cơ bị nạn như đang chờ lệnh khai hỏa của tử-thần. Hai nghe trên tần-số ground của đài kiểm-soát Pleiku dồn-dập vang lên qua nón bay: - Thái-Dương 32, phi cơ đang bốc cháy, bạn thoát ra ngay đi. Coi chừng bom có thể phát nổ. Hai thấy toàn thân mình lạnh cứng như một tảng băng, anh cho phi cơ quẹo gắt với 90 độ nghiêng. Chiếc khu-trục cơ vặn mình rít lên trong không khí, kéo theo hai lằn khói trắng dài hai bên cánh như con thần long đang cuốn nước. Hai cho phi cơ bay ngược chiều phi-đạo ở cao độ 50 feet. Anh thấy Độ nằm vắt ngang bên hông phòng lái, thân hình chìm trong ngọn lửa ngùn-ngụt bốc lên, như đang chống trả với thần chết, để vượt qua khỏi quãng tử-lộ ngắn ngủi của đời người. Không biết là Độ có nghe được tiếng mình qua tần số hay không nhưng anh vẫn gọi như hét lên: "Độ ráng lên đi, coi chừng bom phát nổ!". Không có tiếng Độ trả lời, anh kéo vút phi cơ lên cao rồi vòng lại một lần nữa. Đoàn xe cứu hỏa, xe cứu thương và toán "tháo gỡ chất nổ" (EOD) đang từ bên kia sân bay phóng qua. Từ trên cao độ, Hai thấy những chiếc vòi rồng đang phun chất bột foam trắng xoá như tuyết phủ trùm lên ngọn lửa và những trái bom nằm lăn lóc xung quanh. Hai liên-lạc với đài kiểm-soát: - Đài kiểm-soát Pleiku! Xin bạn cho biết tình-trạng của Thái-Dương 32. - Pleiku đài nhận rõ. Xin báo cho Thái-Dương 31 biết là số hai đã được đưa ra khỏi phi-cơ và đang trên đường tới bệnh xá. - Thái-Dương 31 hiểu, cám ơn bạn. Hai rời tần số của đài kiểm-soát, cho phi-cơ lên cao độ, bay một vòng trên sân bay rồi chuyển hướng tới mục-tiêu… Anh mở tần-số liên-lạc với phi-cơ quan-sát: - Bắc-Đẩu đây Thái-Dương 31 gọi. Hiện tại tôi đang ở hướng Đông Nam của mục-tiêu, cao độ 5,000 bộ. Tôi lên vùng trễ vì số 2 bất ngờ bị nạn trên phi-đạo. Giọng nói trầm ấm của người phi-công quan-sát chuyền qua nón bay như rót vào tai Hai những lời vỗ-về an-ủi: - Bắc-Đẩu nhận Thái-Dương rõ. Chúng tôi đang ở hướng 9 giờ của bạn đó, cao độ 2,000 bộ. Xin bạn cứ yên tâm, Bắc-Đẩu đã được Peacock cho biết tình-trạng của Thái-Dương 32, và đã điều động thêm 2 phi-tuần A37 từ Phan-Rang lên thay thế. Xin bạn cho biết trang bị. Hai cảm động trước mối chân tình của những người bạn Quan-Sát. Anh bấm máy trả lời: - Cám ơn Bắc-Đẩu. Tôi còn đủ sáu trái Napalm 500 cân, và 800 viên đại bác 20 ly. - Bắc-Đẩu nhận rõ. Tôi sẽ cho bạn một trái cam ngay ổ con chuồn chuồn. Bạn có thể salvo làm một pass. - Thái-Dương nghe bạn 5/5. Chiếc O1 nghiêng cánh chúi xuống bắn trái khói rồi vút lên cao. Một cột khói mầu cam cuồn cuộn bốc lên giữa đám rừng cây xanh ngắt. Tiếng người phi-công quan-sát lại vang lên: - Thái-Dương đây Bắc-Đẩu! Mục tiêu ở ngay trái khói là một đoàn xe Molotova của địch được nguỵ-trang, đang ẩn dưới lùm cây, trông có vẻ như một đoàn xe tiếp tế đạn dược... Coi chừng có phòng không 37 ly và SA7. Hai bấm máy trả lời rồi làm một vòng roll quay tròn phi-cơ lao xuống mục tiêu. Anh bấm nút khai hỏa bốn khẩu đại bác hai bên cánh để bắn phủ đầu, và cho phi-cơ xuống một cao độ sát với đầu ngọn cây, vừa để tránh tầm nhìn của địch vừa lấy thêm tốc độ để thả bom lửa. Thấp-thoáng từ những lùm cây bên dưới vút lên những tia đạn đan chéo bên cánh phi cơ. Hai thấy miệng mình đắng chát, mồ hôi trán rịn ra, anh mím môi bấm nút thả từng trái một xuống mục tiêu. Một cuộn lửa trải dài như tấm lụa hồng bung ra phủ trùm lên đầu cây ngọn cỏ... Thả xong 6 trái napalm, Hai kéo mũi phi-cơ thẳng đứng làm một nửa "vòng số tám", quay ngược đầu chúi xuống bắn thêm một tràng đại bác 20ly nữa rồi phóng lên cao độ làm vòng chờ để lấy kết qủa. Tiếng người phi-công quan-sát hét lên qua ống nghe trong nón bay: - Tuyệt cú mèo! Thái-Dương 31 đánh qúa đẹp. Xin báo cho bạn biết là có nhiều tiếng nổ phụ. Thái-Dương 31 đã đánh trúng đoàn xe tiếp tế đạn dược của địch rồi đó. Hai cười bấm máy trả lời người bạn quan-sát: - Cám ơn bạn qúa khen. Chỉ là chuyện nhỏ thôi. Thái-Dương 31 đã thả hết bom, đạn, bây giờ tôi rời vùng. Cẩn thận nghe Bắc-Đẩu.
Nói xong Hai lắc cánh, lấy hướng về phía Bắc-Đẩu, làm một vòng roll 360 độ để chào người bạn quan-sát ở lại nơi chiến trường, rồi kéo mũi phi-cơ vút lên, lao mình mất hút sau những cụm mây xám trong vòm trời cao rộng… Có tiếng người phi-công quan-sát gọi với theo: - Phải "Hiệp-Sỹ say Hai còi" đó không. Xuyên qua đám mây dầy đặc, Hai bấm máy cười trên tần-số: - Ha… ha… ha… Hai còi đây. Nghe giọng nói quen quen: - Phải Bắc-Đẩu thiếu-hiệp Đinh Đức-Bản đó không. Hẹn gặp lại bạn đêm nay tại câu-lạc-bộ không-đoàn. Rời tần-số FM, Hai chuyển qua UHF để liên-lạc với Peacock. Anh được đài kiểm-báo của quân-khu 2 cho biết là phi-trường Pleiku hiện còn đang đóng cửa để toán EOD tháo gỡ ngòi nổ của những trái bom còn dính trên phi-cơ, và chuyển lệnh của phòng hành-quân-chiến-cuộc không-đoàn 72 chiến-thuật yêu cầu Thái-Dương 31 về đáp Phù-Cát. Nhận lệnh từ Peacock, Hai kiểm soát lại đồng hồ nhiên-liệu trên bảng phi-kế thấy còn đủ xăng để bay thêm khoảng hơn một tiếng nữa, anh cho phi-cơ lên khỏi trần mây, và bình-phi ở 11,500 bộ rồi lấy hướng đi Phù-Cát. Nhìn bầu trời đầy mây phủ trắng xóa cả một mảnh không-gian, anh thấy lòng mình chùng xuống khi nghĩ đến Độ, người phi-công trẻ mới về phi-đoàn, như một con phượng-hoàng vừa rời tổ, chưa đủ thời giờ để mài nanh giũa vuốt, đã xoải cánh cô đơn, bay vào vùng trời đầy dông bão… Anh cho phi-cơ xuyên mây, rồi mở tần-số liên-lạc với Phù-Cát xin đáp... Hai cho phi-cơ vào ụ đậu theo sự hướng dẫn của người cơ trưởng rồi tắt máy, leo ra khỏi phòng lái. Một chiếc pickup chạy tới, người trung-sỹ mở cửa xe bước ra tươi cười hỏi Hai: - Hôm nay là ngày ông Táo về trời, Đại-Uý xuống đây có một mình. Hai bắt tay người Trung-sỹ rồi đáp: - Đi hai chiếc nhưng số hai làm "crashed" trên phi-đạo, phi-trường đóng cửa, nên phải bay xuống đây. - Tôi vừa đổi ca trực nên không biết. Xin lỗi Đại-Uý. Hai cười vỗ vai người trung-sỹ rồi quăng bộ giây nịt dù lưng và nón đựng mũ bay vào thùng xe nói: - Ồ không có gì, trong những phi-vụ hành-quân, tai nạn xẩy ra là chuyện thường. Vào đến phòng hành-quân-chiến-cuộc của căn-cứ Phù-Cát, Hai mượn điện-thoại "Hot Line" để gọi về Pleiku hỏi thăm tình trạng của Độ thì được biết là Độ bị phỏng nặng nên đã được đưa về bệnh-viện dã-chiến của Hoa-kỳ ở Long-Bình để chữa trị. Hai gác máy, gương mật đăm-chiêu, ngả người nhìn lên trần nhà, và để thoát ra một tiếng thở dài... Trong cuộc đời chinh-chiến, nhiều lần vào sanh ra tử, nhưng chưa lần nào anh thấy cô-đơn và trống vắng như lần này. Một sự trống vắng pha trộn lẫn với sự hối-hận là đã bỏ lại người bạn đồng hành đang quằn-quại trong cơn đau đớn của thể xác… Anh cảm thấy mình như thiếu trách-nhiệm đối với Độ. Đáng lẽ anh không nên để cho Độ cất cánh trong lúc gió ngang giật mạnh như vậy. Hai lắc đầu xua đuổi những ý nghĩ tiếp nối... Tiếng người sỹ-quan trực đưa Hai trở về với thực tại: - Đại-úy đáp giờ này chắc là chưa dùng cơm chiều. Tôi vừa xuống ca trực, để tôi chở đại-úy tới khu gia-binh trong căn-cứ, mình làm vài chai cho ấm bụng. Bữa nay ngày cúng ông Táo, chắc là có nhiều món ăn đặc biệt. Hai cười cám ơn người sỹ-quan trẻ hào-phóng. Anh móc túi coi còn bao nhiêu tiền. Bỗng anh khựng lại khi biết mình chỉ còn chưa tới hai trăm, không đủ để chi một bữa ăn tối cho một người. Anh nói: - Cám ơn thiếu-úy, tối nay tôi ngủ nhờ nơi phòng trực ở đây được rồi. Nếu tiện, nhờ thiếu-úy mua dùm một ổ bánh mì. Ông thiếu-úy như hiểu ý Hai, tươi cười nói: - Đại-úy đừng ngại, thằng Độ là bạn cùng khóa rất thân với tôi. Hồi nãy nghe báo cáo trên máy, tôi cũng có ý chờ đại-úy xuống. Đêm nay đại-úy cho tôi thay nó đứng ra đãi khách nghe. Ông trung-úy vừa đổi phiên trực cũng phụ họa theo: - Đại-úy đừng bận tâm, thằng này là con ông chủ trại bưởi Biên-Hòa, đẹp trai con nhà giầu và chơi với bạn bè rất có tình nghĩa. Nó biết đại-úy cùng phi-đoàn với thằng Độ, nó sẽ không để cho đại-úy ở đây một mình đâu. Hai cảm-động và thấy lòng mình như ấm lại sau lời nói chân-thành của ngưòi sỹ-quan trẻ; mặc dù chưa hề quen biết, nhưng mới chỉ qua một lần đầu gặp gỡ, mà đã thấy đâu đây phảng-phất những nét giao-tình. Thứ tình bằng-hữu, tri-kỷ của những người trai thời loạn… …Buổi chiều cuối năm. Bầu trời Tây-Nguyên mịt mù sương khói. Những đám mây đen từ đỉnh núi đang kéo về như báo hiệu một cơn dông sắp đổ tới. Phi-hành-đoàn của chiếc C130 đã lấy xong hành-khách từ hậu trạm tiếp-liên, và đang cho phi-cơ di chuyển để rời phi-đạo. Nơi đầu sân bay 09, chuyến bay cuối cùng trong ngày của hãng Hàng-Không Việt Nam cũng vừa bốc khỏi mặt đất, đưa khách lãng tử phong trần trở về nhà ăn Tết, trả lại cái vắng lặng của một buổi chiều cuối năm cho vùng núi rừng biên-trấn. Nhìn đồng hồ thấy đã 6 giờ chiều. Phi-vụ túc trực bao vùng cuối cùng cũng vừa được hủy bỏ vì thời tiết xấu. Hai gấp tấm bản đồ hành-quân rồi quay qua nói với "Mai râu": - Hôm qua bọn thằng "Tuấn Bocassa" và thằng "Xuân tóc đỏ" bên trực-thăng được ông chủ đồn-điền trà tặng con heo rừng. Tụi nó hẹn tối nay đốt lửa đón giao-thừa, nếu Thiếu-Tá không có hẹn với ai thì ghé chung vui với tụi này luôn thể. Hồi trưa ông "Bá chủ" ghé phi-đoàn cho hai chai rượu đậu nành để anh em ăn Tết. Mai cười rung rinh hàm râu giang-hồ nói: - Tao có hẹn với bọn thằng Phong, thằng Chánh, thằng Hậu, thằng Cầu, thằng Quán bên Biệt-Động-Quân và mấy thằng Lôi-Hổ ở KonTum tối nay ngoài quán Diễm… Mai chưa kịp nói hết câu thì có tiếng điện-thoại reo, anh ngừng lại với tay nhấc điện-thoại: - Thiếu-tá Mai phi-đoàn 530 tôi nghe. Xin lỗi ai đầu giây. Hai nhìn Mai nói đùa: - Giờ này mà điều-động cất cánh là tui làm "abort take off" đó nghe… Hai bỗng khựng lại khi thấy gương mặt Mai bất chợt thay đổi. Mai gác máy, rồi nhìn Hai, giọng nói như lạc đi: - Thằng Độ đi rồi… Hai lặng người cảm thấy như có một luồng lãnh khí chạy luồn từ chân lên đầu. Anh để rơi tấm bản đồ, hướng tia mắt lạc thần nhìn lên bảng phi-lệnh như để tìm kiếm một tên tuổi thân quen… Mai đặt tay lên vai Hai, bóp nhẹ để biểu lộ một sự cảm-thông với tâm-tình u-uẩn của người bạn trẻ rồi nói: - Thôi mình đi về cư-xá. Tối nay tụi mình sẽ họp nhau đốt lửa đón giao-thừa và để tiễn thằng Độ… Hai không nói gì, lẳng-lặng theo Mai ra xe. …Chung quanh đống củi đang cháy, ánh lửa bập-bùng chiếu hắt lên từng khuôn mặt rắn rỏi của những người lính chiến Không-Quân của Không Đoàn 72 chiến-thuật, những anh-hùng Lương-Sơn-Bạc của thời đại, tự bốn phương trời tụ tập về đây, để cùng nhau chia xẻ những nhọc nhằn nguy-hiểm trong cuộc chiến. Vầng trán phong sương của mỗi người hằn lên những vết nhăn buồn… Hai cầm chai rượu đậu nành rót cho từng người rồi cất giọng hào-sảng nói: - Ngày xưa khi lớn lên vừa lúc biết say cuộc tình, đã phải gĩa từ người yêu để vào say cuộc chiến… Bây giờ cuộc tình đã vỗ cánh bay xa, và trong cuộc chiến bạn bè cũng lần lượt bỏ ta đi, trong ta… chỉ còn lại có cuộc rượu đời để tiễn những thằng ra đi, và say với những thằng còn lại… Nói rồi anh giơ cao ly rượu hướng về phía phi-đoàn trưởng "Mười Lung"; các bạn "Hiệp cò", "Thặng Fulro", "Mai râu", "Sơn Đ…", "Liêu say", Trung, Long, Xuân, Sơn xịt, Phúc, Lộc, Cơ, Xanh, Kỳ, Thành, Chỉnh… cùng các bạn khác nói: - Dzô thiếu-tá, tụi bay… Ly này uống cho thằng em vừa nhập cuộc, chưa kịp thi thố tài năng, đã gĩa từ cuộc chiến… Nói xong anh ngửa cổ uống cạn rồi rót đầy ly khác, tưới lên đống lửa nói: - Ly này để tiễn người hiệp-sỹ đã qua sông không bao giờ trở lại… Ngọn lửa bùng lên như cánh tay tráng-sỹ giơ cao, nâng ly cùng chiến-hữu, uống cạn chén rượu ân tình… Văng vẳng từ xa ngoài phố thị, vọng lên tiếng pháo giao-thừa mừng mùa Xuân mới nơi vùng trời biên-trấn… (Một thời ly-loạn!) Trần Ngọc Nguyên Vũ Hình Ảnh![]() Trần Ngọc Nguyên Vũ và các bạn cùng Phi Đoàn 530 / Pleiku.
|
Điều Bố Không Dặn Lại
Tùy Bút, Tản Mạn
Trần-Công Anh-Dũng![]() Ngày 11 tháng 7 năm 2010 Còi trọng tài rít lên ba hồi dứt khoát: Trận chung kết World Cup 2010 đã kết thúc sau 120 phút giao đấu quyết liệt của hai đội Hoà Lan và Tây Ban Nha. Trên màn ảnh TV lớn trong hội trường nhật báo Người-Việt, Nam Cali, các cầu thủ đội thắng ôm nhau nhảy nhót tưng bừng, cầu thủ đội thua ôm nhau khóc có người nằm lăn ra sân cỏ không còn thiết ngồi dậy nữa! Bên dưới cử tọa, các khán giả Việt Nam, nam phụ lão ấu đủ cả, lục tục đứng dậy. Hàng mấy trăm người đã hoan hỉ tự ý chen chúc, lèn ép và nhồi nhét... nhau vào trong hội trường này gần 3 tiếng đồng hồ, bây giờ đã tới lúc mình được mình trả... tự do! Tôi thận trọng vịn hai tay đẩy của chiếc xe lăn có bố tôi ngồi trên đó để đứng lên. Khi đã có tới 6 bó rưỡi que để đếm những năm có mặt với đời thì làm gì cũng chậm chạp, nhất là bây giờ sau gần 3 tiếng đồng hồ quỳ sau xe lăn trên nền nhà, hai chân tôi tê mỏi và đầu gối muốn cứng lại; đứng dậy thật không dễ dàng chút nào! Hì hì hì! Đừng ai nghĩ là tôi đã ra cái điều “nhị thập tứ hiếu” quỳ bên cạnh hầu bố xem đá banh! Tôi quỳ vì không có chọn lựa nào khác: Ngồi bệt xuống sàn nhà thì đầu tôi thấp hơn vai bố tôi, không thấy gì trên màn ảnh; còn đứng lên thì... chết sướng hơn! Đứng lên thì đã là thậm bất lịch sự và không khác gì chọc cho hàng hàng lớp lớp khán giả ngồi phía sau mình nổi giận. Trước khi trận đấu mở màn, tôi đã nợ các vị ngồi phía sau một chút ân tình. Chúng tôi đến nơi chỉ trước giờ khởi sự trận đấu chừng mươi phút; so với đại đa số khán giả khán giả họ đã đến đây sớm hơn rất nhiều và hiện diện đầy trong hội trường người ngồi kẻ đứng sít như nêm; dù vậy, các vị đã vui vẻ cũng có, càu nhàu cũng có nhưng vẫn bảo nhau ép qua ép lại hai bên mở ra một lối đi hẹp vừa đủ cho chúng tôi (“chúng tôi” gồm bố tôi trên xe lăn, con gái út tôi xách giỏ “phụ tùng” cho một “ông thọ” — không phải sữa Ông Thọ — hơn 99 tuổi và tôi trong vai Kim Liên em hỡi Kim Liên; đẩy xe cho chị qua miền Hà Khê) di chuyển dần lên phía gần màn ảnh. Món nợ ân tình trên đường đời này nghĩ qua thì chỉ là một chút với người cho, nhưng nghĩ lại mà đem nhân cái “một chút” đó với hàng trăm người đã cho thì người nhận sẽ mang một món nợ không nhỏ chút nào! Chắc chắn là tôi không có cách nào trả xong ngoài cách... cười trừ.
Tấm hình trên đây vừa được một đứa con rảnh việc của tôi ngẫu nhiên tìm thấy từ Người Việt Online ngày 11 tháng 7 năm 2010 trong một bài viết ngắn của ký giả Tư Túc Cầu để “bế mạc” chiến dịch World Cup tại trụ sở Người Việt. Tấm hình ghi lại một ngày vui của mọi người, ngày của trận chung kết World Cup 2010. Ở chính giữa ảnh, bố tôi là ông cụ áo quần màu xám đậm, ngồi trên xe lăn, tôi thập thò phiá sau cụ, cháu gái nhỏ áo đỏ trước mặt cụ là con út của tôi. Tới trễ mà đến được “toạ độ” này là may mắn lắm rồi, tuy chưa mấy gần màn ảnh, nhưng vòi vĩnh quá với vận may là điều không nên! “Gia đình tôi” (và mươi khán giả “mất trật tự” khác, toàn là thanh thiếu niên), đang chắn bít lối đi hẹp giữa hai lô ghế của hội trường. Đám thanh niên đó “nhẹ tội” hơn tôi vì họ chỉ như những “khinh binh”, cơ động rất nhanh, khi cần thì họ biến dễ dàng; phần tôi thì không dễ gì xoay trở với cái “chiến xa” và cụ “trưởng xa” 99 tuổi rưỡi. Lôí đi giữa hai lô ghế hẹp té! “Chiến xa” của bố tôi tới ngang dãy ghế nào thì cả hai phiá của dãy đó xem như bị khoá cứng lốí exit duy nhất, cho nên tới đâu cũng được “nhân dân địa phương” hai bên mời khéo đi chỗ khác: “Lên nữa đi mé trước còn trống mà” hoặc bác ái hơn “lên nữa đi cho ông cụ nhìn rõ thêm chút.” Trong một bài hát “mô đi phai” từ ca dao, nhạc sĩ Phạm Duy... “nhồi” động tác leo cây bưởi của người con trai trèo lên, lên, trèo lên; trèo lên, lên trèo lên... rồi sau cùng anh ta cũng không còn chỗ để mà trèo nữa. Tôi cũng vậy, khi không còn đẩy xe lên thêm được nữa thì tôi ngừng lại nhận đại nơi này làm quê hương trước sự khó chịu hợp lý của những người bị chúng tôi đến ngồi sát bên cạnh. Tôi lúng túng cố giãi bày...“hoàn cảnh gia đình”, phân bua về “tình thế trận liệt” với vị khán giả phản đối kiên trì và gay gắt nhất trong số các “nhân dân địa phương” nơi chúng tôi “hạ trại” để ông thông cảm. Sau vài “thông điệp” mạnh mẽ vẫn thấy tôi nhỏ nhẻ điều đình và không nhúc nhích, ông bạn này hiểu rằng “đối phương” của ông đang ở vào thế “no choice” sẵn sàng đổ lì một cách “không gì lay chuyển nổi” ông bèn không thèm “đấu tranh trực diện” với tôi nữa. Trước khi diễn tả nét mặt của một người thà để dành hơi nói chuyện với đầu gối mình, ông buông cho tôi một câu “nhận định thời cuộc”. Câu nói đó gieo cho tôi một sự áy náy bất an suốt thời gian sau đó, "anh làm bít lối đi như vậy là mất an toàn, như vầy mà city mà nó tới kiểm tra, nó phạt báo Người-Việt chết luôn!" Trời đất! Có vụ này nữa hả? Đừng nha “city”! Hôm nay chịu khó... làm biếng một bữa đi, tha cho báo Người-Việt nha, cứ ngồi yên trong văn phòng coi TV đá banh đừng đi kiểm tra gì hết. May quá! Đúng là ở hiền gặp lành, cho đến khi tan hàng, hổng thấy “city” tới làm khó dễ, ngoại trừ vài vị ứng cử viên đến cười tình với bà con khán giả xin “vote for me”!
Bố tôi dắt tôi đi xem đá banh từ năm tôi học lớp nhất (bây giờ gọi là lớp năm); hầu hết những lần này đều có anh cả của mẹ tôi (mà tôi gọi bằng cậu theo cách của người Huế) và một bác bạn của cả bố lẫn cậu cùng đi. Lúc đó đang là những năm cuối cùng của sân Tao Đàn; khi đưa vé qua cổng ba người lớn quây tôi vào giữa, những người soát vé thấy ba người lớn “đồng bảo trợ” cho một nhóc tì loắt choắt thì họ cho vào dễ dàng. Tôi vẫn được tiếp tục theo bố đi xem đá banh ở sân Cộng Hoà cho đến hết năm học lớp Đệ Lục (lớp 7). Qua năm học Đệ Ngũ tôi bắt đầu nhổ giò những người soát vé không cho tôi đi “ruồng theo” người lớn nữa; tôi ở nhà ôm radio chờ nhạc hiệu “tèn ten ten tén ten tèn tén ten – tarèng –, tèn ten ten tén ten tèn tén ten – tarèngtenten – tèn ten ten tén ten tèn ten tén... để nghe ông Huyền Vũ trực tiếp truyền thanh. Ông Huyền Vũ là một nhân tài hiếm có; không ai không khâm phục và mến mộ ông trong các trận banh quốc tế trên các sân banh của Saigon: Sân Tao Đàn, sân Cộng Hòa, ông tường thuật rất lưu loát, linh hoạt hấp dẫn và văn vẻ nữa. Lúc thì ông khoan thai tả bao quát quang cảnh sân banh với hàng chục ngàn khán giả trên các khán đài khi mưa thế nào, khi nắng ra sao; lúc thì dồn dập trực thuật các đợt tấn công, phản công quyết liệt của hai đội banh, lại có lúc phân tích gãy gọn dễ hiểu những gút mắt về một quyết định của trọng tài. Tôi thích nhất những khi ông kể lại chi tiết như đoạn phim quay chậm, những diễn tiến lắc léo, dồn dập mà từ đó một cú sút “sấm sét” được phóng ra, một đường “bay” vừa dũng cảm lại vừa lả lướt của thủ môn để cứu “một bàn thua trông thấy”, (nhất là của thủ môn “Lưỡng Thủ Vạn Năng Phạm Văn Rạng! Ôi, một thần tượng lẫy lừng khác của hàng trăm ngàn trái tim thanh thiếu niên chúng tôi thời đó!) Ông Huyền Vũ không bao giờ biết rằng khi ông say sưa trực tiếp truyền thanh những gì diễn ra trước mắt ông thì trong một căn nhà nhỏ ngoại ô, một thằng nhóc, (tôi chứ ai!), cũng say sưa làm cái việc... ngược lại. Tôi tưởng tượng ra một cách chầm chậm hay hối hả bằng hình ảnh những gì tôi nghe ổng nói. (Tất nhiên là không dễ dàng gì!) Trong đám bạn cùng vào lớp trung học của tôi có một đứa nhái giọng ông Huyền Vũ rất giống, nó cũng có cái đam mê rất nhiều với thể thao nói chung và túc cầu nói riêng. Chưa xong lớp Đệ Tứ, nó đã có bài đăng trong tuần báo thể thao Đuốc Thiêng, lên các lớp đệ nhị cấp nó thành cây bút thường xuyên về thể thao cho vài nhật báo và tuần báo Thao Trường. Bây giờ nó ở Utah và tiếp tục viết báo Việt ngữ cho nhiều nơi về đủ thứ lãnh vực tất nhiên là cả thể thao nữa. Trước khi World Cup 2010 khai mạc mươi ngày, nó email cho tôi một bài bình luận... dài hơi những hơn 20 trang về sự kiện thể thao toàn cầu sắp diễn ra. Tôi in ra chữ to và đậm để bố tôi dễ đọc; không biết cụ đoc hết chưa, nhưng một hai hôm trước khi World Cup khai mạc cụ khen “tay này” viết “được”. “Được” là mức bình điểm cao nhất bố tôi tặng cho người khác tự hồi nào tới giờ! Cái gì mà cụ khen “được” thì tương đương với “hay quá” hoặc “tốt lắm” theo tiêu chuẩn đánh giá của những người... phàm như tôi! Có lẽ văn phong quen thuộc của thời Đuốc Thiêng, Thao Trường của bạn tôi đã gõ đúng mật hiệu cho cánh cửa ký ức thể thao đóng kín lâu ngày của cụ mở ra khiến cụ... hào phóng lời khen đến thế! TV cùng với tập phụ bản báo Người Việt in lịch trình các trận đấu đưa bố tôi đi sâu vào World Cup, cụ ghi chép kết quả rất đầy đủ các trận cụ có thể xem. Thường xuyên ngồi xem cùng với cụ trong thời gian này là con gái út của tôi cũng là đứa cháu nội út của cụ lúc đó vừa thôi việc, ở nhà chờ niên khoá mới khai giảng để đi học thêm. Tuy là một bé gái gầy gò bởi những năm đầu đời suy dinh dưỡng nhưng cháu rất thích... đá banh. Sự mê say môn túc cầu và tính quả quyết hơn cả... con trai, đưa cháu đến vai trò thủ quân đội bóng tròn... lớp Năm 3, vô địch của trường Tiểu học Phùng Hưng, Quận 11 Saigon 17 năm về trước khi lên 10 tuổi! Trong World Cup này cháu đang là bạn bình luận thể thao... tương đắc với ông nội! Cùng ngồi trước TV hai ông cháu tuy cách nhau 72 tuổi nhưng hay la to những tiếng giống nhau cùng một lúc: “sút!”, “zô!”, “hay quá!”, “penalty!” v.v... Cái giờ của các trận banh World Cup buổi trưa là giờ tôi phải chuẩn bị đi làm ca 2 (swing shift). Tiếng reo hò của hai ông cháu tuy rập ràng, sôi nổi thật đấy, nhưng tôi nghe mà có chút buồn se se trong lòng. Không! Không! Tiếng reo hò của đá banh phải rền như sấm phải phát ra từ hàng vạn lồng ngực bật ra khỏi hàng vạn đôi môi cùng một lúc dù không một ai chỉ huy, điều khiển. Đó là âm thanh sống động của cầu trường. Con tôi, chưa từng xem đá banh “live” trên sân Cộng Hoà, nên có thể không có cảm giác gì sau những tiếng la hò cổ võ của nó, nhưng bố tôi thì khác, khi tiếng reo hò của cụ không được náo nức hoà tan mất hút vào các đợt sóng âm thanh ào ạt “sấm rền” quen thuộc trong ký ức cầu trường của cụ thì cụ lại nhận ra rằng mình đang ngồi nhà xem đá banh trên TV vào “một ngày như mọi ngày” trong chuỗi ngày đằng đẵng, hắt hiu buồn của tuổi già trên đất khách! Tôi nghĩ đến các “cầu trường thu nhỏ” do các nhật báo lớn tổ chức trong trụ sở của mỗi tờ báo trên đường Moran, Westminster, tuy cũng là cầu trường “ảo” nhưng lại có rất đông khán giả... thật cùng đến xem. Khá đông những khán giả đó hẳn đã từng cùng ngồi trên các khán đài A,B,C,D của sân Cộng Hoà cùng xem những trận đấu bố tôi xem, cùng hò reo góp giọng vào những cơn sấm rền không ai điều khiển của cầu trường. Vì thế ngày hôm nay ba thế hệ của gia đình tôi đã có mặt ở đây để xem trận chung kết này, để trong khi xem, bố tôi có thể gởi những tiếng la, tiếng reo của cụ hoà nhập một cách hào hứng vào cơn lốc, cơn bão âm thanh cùng loại của đám đông cuồng nhiệt. Hơn nữa gia đình tôi, cả ba thế hệ “hiện hành”, đều yêu mến, mê tín, tha thiết ủng hộ đội banh của xứ đất thấp hơn biển, xứ của hoa tulip, xứ của những “ngự lâm pháo thủ” trên sân cỏ Johan Cruiff, Ruud Gullit, Van Basten, Ronald Koeman: “Cơn Lốc Màu Da Cam”.
Kết quả trận đấu đã trái với ước mong của gia đình chúng tôi! Cơn Lốc Màu Da Cam lần thứ ba bị vuột mất cúp vàng Julies Rimet. Con gái tôi buồn ít nhưng có vẻ bực nhiều, nghe cháu cằn nhằn luôn miệng: Hoà Lan ơi là Hoà Lan! Tôi đang bâng khuâng tiếc cho Hoà Lan chưa biết diễn tả ra sao, chợt thấy vai mình có người vỗ nhẹ, ông bạn khán giả “nạn nhân” bị bố con tôi chiếm ngụ khoảng không gian sát cạnh đứng trước mặt nhìn tôi cười cười thân thiện. Ông khen tôi có hiếu (tôi đâu dám nhận ẩu!) và bày tỏ sự hối tiếc về những chấp nhất ban đầu của ông. Tôi cũng chân thành xin lỗi cùng bày tỏ lòng cảm phục về sự thẳng tính của ông. Chúng tôi siết tay nhau thân thiết nồng nàn như đôi bạn tri kỷ lạc nhau đã lâu mừng tái ngộ. Còn bố tôi, dù phải ngồi thật lâu một chỗ, trông cụ vẫn bình thường và còn có vẻ hả hê nữa. Tôi còn mong muốn gì hơn! Một khán giả lớn hơn tôi mươi tuổi đi qua nhìn ông cụ và khen với tôi: “Ông già giỏi thiệt, ngồi lâu vậy mà... không đi tiểu”! Về đến nhà bố tôi mới hé lộ tâm sự mình, tiếc cho Hòa Lan không đoạt cúp và tiếc cho cụ không được thấy đội banh cụ yêu thích lên dài vinh quang. Bốn năm sau không biết cụ còn không mà xem World Cup và làm sao mà Hoà Lan tranh nổi cái cúp với Ba Tây ngay trên sân nhà của họ. Tôi nghe mình nói , “Cụ lo gì, sự bất quá tam, lần thứ tư đá trận chung kết thế nào Hoà Lan cũng thắng; bốn năm mà ngay cả tám năm nữa cụ vẫn dư sức chờ mà”. Bố tôi cười nhìn tôi bằng cái nhìn thấu suốt của ông bố biết rành về thằng con của mình khi nó nói điều mà chính nó không tin tưởng lắm.
Bố tôi qua đời bình thản trước Lễ Tạ Ơn 2010 vài hôm. Đứa cháu nội út, “bạn” xem đá banh của bố tôi, từ trường học ở Paolo Alto trên đường về nhà nghỉ lễ chạy thẳng đến nhà thương được vài phút thì ông trút hơi thở cuối cùng! Sống tròn một thế kỷ, minh mẫn đến những ngày cuối đời bố tôi ung dung ghi lại dặn dò thật chu đáo hậu sự của mình như Khổng Minh để cẩm nang cho các thuộc tướng thi hành. Có một điều cụ quên không dặn, khi World Cup trở lại những lần sau; không còn “Cụ Trưởng xa” nữa, “chiến xa” đã được cất kỹ trong garage thì tôi, Kim Liên em hỡi Kim Liên, phải làm gì và khi Hoà Lan đoạt giải vô địch chúng ta sẽ ăn mừng thế nào.
Xin cảm ơn báo Người-Việt. Trong hội trường của quý vị, trong không khí hào hứng, sôi nổi, ồn ào của hàng mấy trăm con người chen chúc nói cười; một kỷ niệm rất riêng tư, rất sâu lắng đã lặng lẽ ngấm vào tâm não bố con, ông cháu chúng tôi. Cảm ơn bạn H-N-N, Utah, cựu CVA đã “có mặt” trong kỷ niêm đặc biêt này của gia đình tôi; và sau hết T-M-T, Hội Y Nha Dược Florida, một cựu CVA nữa, dẫu “nghìn trùng xa cách” vẫn “tam tứ cố thảo lư” bằng email an ủi, và thúc giục: “Hãy viết về Ông Cụ cho bớt buồn bạn ơi.”
Trần-Công Anh-Dũng ![]() Fifa 2010 Final Match Spain Vs Netherlands - 2nd extra time FIFA World Cup South Africa 2010 All Goals (có lời bình) FIFA World Cup South Africa 2010 All Goals 2010 World Cup - 50 Most Shocking Moments |
Friday, February 14, 2014
VNAF Lê Bá Định - Một Vài Kỷ Niệm
Chuyện tản mạn Nguyễn Giang
![]() Khi lên Pleiku vào cuối năm 1970, tôi có gặp ông Lê Bá Định, lúc đó là Thiếu Tá. Khi ấy, Không Đoàn Yểm Cứ Pleiku, Sư Đoàn VI Không Quân chưa thành lập. Sự hiện diện của KQ ở đây chỉ là Căn Cứ 92, bé tẻo tèo teo, từ quan đến lính rặt toàn thành phần không bị đì thì cũng kém kỷ luật (dĩ nhiên ngoại trừ những thằng lính mới tò te như tôi). Hầu hết đều có máu bất mãn kinh niên trong người, vì "cùng một lứa bên trời lận đận" nên chẳng anh nào nỡ đì anh nào cả, ngoại trừ một vài anh có máu "rếch lô" trong người! Ai cũng nghĩ đây là chốn tận cùng hằng số rồi, còn chỗ nào tệ hơn nữa đâu mà sợ. Tôi nhớ, sau khi bắt thăm phải phiếu lên Pleiku, tôi không biết nó ở đâu cả. Về nhà, hỏi ông cụ, người cũng rất ư mơ hồ, phải giở bản đồ ra để tìm vị trí. Tìm ra Pleiku ở đâu rồi, ông cụ thì thào: "Chết chết, cũng khá xa mày ạ!" Dưới trướng của tôi có dăm anh lính. Trong số đó, có một anh lính gốc Miên và một anh lính người Thượng. Anh người Miên thì chuyên lấy lòng tôi bằng bùa yêu: "Thiếu úy ơi, đeo cái vòng này vào tay đi, gặp cô nào cứ lẩm bẩm 7 câu tiếng Miên này là cổ theo Thiếu úy ngay!" Có lẽ trong 7 câu đó thể nào cũng có câu: EM XIN PHÉP ĐƯỢC YÊU ANH hoặc ĐỪNG THA EM ĐÊM NAY! Chàng tuổi trẻ "vốn dòng hào kiệt" cũng cố thử dăm lần trong các bal de famille cuối tuần. Nhưng đọc xong 7 câu thiệu thì đã thấy em nhẩy tung trời với kẻ khác. Có em kiên nhẫn ngồi nghe thì băn khoăn, không biết cái thằng cha ấm ớ này bị "ấm đầu" hay sao mà có cử chỉ giống như "ngày xưa té giếng" vậy. Biểu diễn màn này được vài lần, thấy chẳng công hiệu chi nên tôi dẹp luôn. Ấy thế mà khi mình hỏi qua loa về cuộc đời tình ái của tên Miên này thì hắn bảo, từ bé tới lớn hắn chẳng biết "cái ấy" hình thù ra sao! Thế mới ứa gan chứ! Anh người Thượng thì cứ hay xin đi phép để "bắt cái nước" con vợ tui (người Thượng gọi vụ đó là BẮT CÁI NƯỚC). Mà cái vụ ấy của bọn Thượng lạ lắm quí vị ạ. Hắn có mời tôi ra nhà hắn chơi vài lần. Vợ chồng con cái, thú vật nuôi như chó, vẹt (đã cắt cánh), kể cả khách khứa đều nằm chung trên sàn. Đến khuya, trằn trọc không ngủ được, tôi thấy hắn làm "nghĩa vụ công dân" . Hắn chỉ có nằm lên trên, theo kiểu trai trên gái dưới, không một cử động, không một tiếng thở, đừng nói đến tiếng rên. Thế mà cũng xong. Nghĩ đến mai đây có "bắt cái nước" một em Thượng nào mà phải tập trung tư tưởng để "giải thoát" như thế này, tôi lạnh cả người!.. Có lần, bực mình vì hắn đi phép quá qui định, ngoài việc không cấp giấy phép cho anh ta nữa, tôi còn gọi cho Trạm Hàng Không Quân Sự để cấm không cho hắn lên máy bay. Biết vậy, hắn lầu bầu: "Thiếu Úy không cho Y Ban này về bắt cái nước với con vợ Y Ban, Y Ban cũng về, Thiếu Úy không cản được con chim này đâu." Thế là hắn thản nhiên lội rừng lội suối về bản, không cần đến cái máy bay. Cả tháng trời sau mới thấy đương sự lò mò về, mặt mũi hân hoan mà không có một lời xin lỗi. Một anh Sĩ Quan baby lắc như tôi, gặp phải trường hợp này quả là khó xử. Nhốt hắn thì hắn quá thoải mái, vì không phải làm việc. Dọa không cho lên binh nhất cũng chẳng có ép phê với hắn, vì trong đầu óc hắn hoàn toàn không có quan niệm về cấp bậc. Chẳng là khi nghe điện thoại, ai hắn cũng gọi là "thằng." Tướng tá gì cũng được hắn ưu ái gọi là "thằng" hết. La rầy hắn thì hắn gân cổ cãi lại: "Y Ban biết nó là Đại Tá chứ, Y Ban chưa muốn nói thôi, cái thằng Thiếu Úy này (là tôi chứ còn ai nữa) làm Y Ban đau đầu quá!" Khi về trình diện, hắn còn biếu tôi một cái gùi nhỏ, trong có lá rừng và gan, lòng của một con vật nào đó: "Thiếu Úy đốt cái này ra thành tro, ghét thằng nào, bỏ vào đồ ăn nó ăn, nó sẽ từ từ ra nhà ma!" Khỏi phải nói, tôi quẳng ngay cái bùa hại người này vào thùng rác. Lúc ấy, Pleiku đầy đặc không khí chiến tranh và mùi vị của miền Viễn Tây, chứ không vào khuôn khổ như sau này trở thành Sư Đoàn VI Không Quân. Con nhà lành 6 giờ chiều là không dám ra đường. Anh em KQ đa số phải mặc đồ civil hoặc đồ bộ binh để ra phố, vì chính Chỉ Huy Trưởng Căn Cứ cũng khuyên không nên mặc đồ Không Quân ra phố. Tôi bèn chơi ngay một bộ quần áo đen Xây Dựng Nông Thôn cho chắc ăn. Đầu đội nón "bo", tóc để dài ra vẻ bất mãn quân đội, súng Colt nhét trong bụng, chân đi dép. Tôi cảm thấy mình như là một Django, mặc dầu suýt rớt mấy lần về bộ môn bắn ở Quân Trường. Thêm một cặp kính "dâm" nữa là đủ bộ. Ông cụ bà cụ tôi sức mấy mà tưởng tượng nổi quân đội đã biến đổi tôi như rứa. Còn em nữ sinh nhà lành nào mà thấy tôi những chiều tối đó chắc phải tưởng tượng đến một màn hiếp dâm không mấy nên thơ cho lắm. Trên con đường chính của Pleiku là đường Nguyễn Huệ, mỗi chiều tối đầy đặc lính của nhiều binh chủng. Có cả lính Mỹ nữa. Đám Biệt Kích gây quan ngại nhất, có anh đeo ở cổ vòng dây tai VC, có anh dắt heo mọi đi nghễu nghện. Heo mọi là loại heo người Thượng nuôi, da đen, thân hình dài hơn heo người mình nuôi một chút. Loại heo này rất khôn, leo cầu thang thoải mái như chó con, sáng sáng lon ton theo chân chủ ra ngoài rẫy. Cần sa và crack (ma túy, thứ bột trắng được bỏ vào điếu thuốc lá để hút) được bầy thản nhiên trong các tiệm chạp phô, giá chỉ bằng độ ba điếu thuốc Pall Mall. Chàng sĩ quan trẻ thất tha thất thểu như tôi bèn nghĩ ngay: "Cocaine không mắc hơn thuốc lá bao nhiêu, vậy hút thuốc lá làm gì, tầm thường quá! Chơi crack có phải lợi hơn không, phê hơn không!" Cũng may, tôi không bị lôi cuốn vào con đường nghiện ngập như mấy tên bạn Bộ Binh của tôi, suốt ngày ngồi đến nẫu người ra ở quán cà phê Tuyết, nơi có hai em Tây lai đẹp não nùng. Dạo ấy, đám SQ chúng tôi được ở gần với bọn Mỹ. Cứ tối đến thì hoặc ra phố chơi, hoặc vào mấy NCO Club với bọn Mỹ. Ngồi trong Câu lạc bộ Hạ Sĩ Quan Mỹ, nhấm nháp ly Vốc Ka và xem Sexy show, tôi lơ mơ nghĩ, hóa ra chốn lưu đầy này cũng đâu có tệ! Sexy Show của bọn Mỹ cũng "đối xử phân biệt" lắm. Tại NCO Club, các sexy girl chỉ được cởi phần trên thôi, còn ở Officer Club thì được (hay phải) cởi tuốt luốt. Thế mới biết, mần Sĩ Quan quả có lý hơn. Thỉnh thoảng, VC pháo vào căn cứ. Thế là bọn Mỹ áo giáp nón sắt hùng hục lao vào hầm trú ẩn, lắm anh va phải nhau, motherfucking ầm cả lên. Còn SQ VN trẻ thì cứ nằm dài trên giuờng, mồm lẩm bẩm: "Mẹ! cái số mà, chui vào mà rocket nó rơi trúng hầm thì cũng đi đời nhà ma! Bọn Mẽo chúng nó to thế, huých nhau với chúng nó để tìm chỗ nấp dám bị thương lắm ạ. Chi bằng cứ nằm trên giường thế này mà lại yên tâm, số chết thì trốn cũng chết!" Những mối tình ở Pleiku cũng ly kỳ lắm. Biết rằng thời gian phục vụ của anh em Sĩ Quan Binh Sĩ ở Pleiku chỉ là 2 năm rồi thăng (hoán chuyển qua đơn vị khác), các em gái hậu phương đều chấp nhận sự kiện này. Nghĩa là, yêu ai cũng chỉ yêu trong 2 năm thôi. Sau đó, nếu không lấy được chàng thì cũng đành ngậm ngùi tìm quên trong cuộc tình mới. Bởi thế, chúng tôi, những Sĩ Quan trẻ người non dạ cũng hớn hở chấp nhận những cuộc tình này mà không hề thắc mắc. Đa số coi Pleiku chỉ là nơi tạm trú trong đời binh nghiệp, nên chẳng ai muốn dính líu sâu đậm với người nữ nào. Nói thế, không có nghĩa là không có những mối tình tuyệt đẹp ở đây, giữa những SQ KQ và những nữ sinh trung học Pleiku. Những mối tình này kết thúc rất có hậu, họ lấy nhau, sinh con đẻ cái, và "live happily ever after", dù phải trải qua bao khốn khổ. Vài người bạn cùng khóa của tôi may mắn rơi vào trường hợp này. Tôi không được cái may mắn ấy. Khi về phép Sài Gòn, bà cụ hỏi: "Con có tính lấy vợ không, hay cứ lang bang mãi?" Tôi ấp úng: "Vâng, con có quen một con nhỏ!" - Ở đâu, người gì, đạo gì, làm nghề gì hả con? Bố mẹ nó ra sao? - Dạ, người Trung, đạo Thiên Chúa, hiện còn đi học, thỉnh thoảng phụ bố mẹ bán bún bò giò heo. Bà cụ cô ấy nghiện thuốc nặng, lúc nào cũng vắt vẻo điếu Cẩm Lệ trên môi. Còn ông cụ cũng rít thuốc như máy, lại là đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng nữa. Thành thử ra, họ thấy con hút thuốc cũng chả nói gì! Bà cụ tôi thở dài cái thượt. Là một Phật tử thuần thành, tiêu chuẩn con dâu của cụ phải là: Người Bắc, đạo Phật, gia đình công chức (như nhà mình), học giỏi và cũng phải biết buôn bán (hình như 2 tiêu chuẩn này hơi chõi nhau), biết nghe lời chồng (nhưng khi thấy con gái mình chỉ huy đức ông chồng thì cụ lại hài lòng ra mặt.) Thế là mối tình đầu tiên và nguy nga của tôi, mối tình lãng mạn không thua gì Romeo and Juliet, Tristan and Yseult, tan vỡ ngay. Tụi tôi cũng đã thề thốt nghiêm trang, đại loại, anh mà không lấy được em là anh chết, em sẽ chết nếu cuộc tình mình "biến chứng". Thế mà sau đó, tụi tôi vẫn sống khỏe mạnh, chẳng ai dại dột tìm cái chết cả! Khi ấy, tôi làm ở Văn Phòng Chỉ huy Trưởng Căn Cứ, Thiếu Tá Định làm Trưởng Phòng Chiến Tranh Chính Trị, coi trên dưới 10 thằng vừa lính vừa sĩ quan nên công việc rất nhàn nhã. Người thường đứng ngoài sân, nhìn theo mấy cánh chim sắt tung trời mà cảm khái cho thân phận mình, bỗng chốc phải chỉ huy một đám chim cánh cụt! Mà cái đám này thì có cả dân bay bị cắt cánh hay được cắt cánh và dân chẳng bay. Dân bay thì tự cao vì mình dù sao đã là pilot. Dân không bay thì hãnh diện vì học thức của mình (đằng nào cũng xuất thân Sinh Viên). Bởi thế, chỉ huy cái đám này, chỉ có ông Định là có thể khiến họ tâm phục khẩu phục. Vì ông bay bổng chẳng thua ai mà học vấn, văn nghệ cũng ít người theo kịp. Ông Định người tầm thước, thuộc loại đẹp trai, là 1 tay ăn chơi có hạng. Chẳng thế mà lại có vợ cũng là dân chơi. Hai vợ chồng nhẩy Valse và Swing rất đẹp. Lê bá Định đúng là 1 biểu tượng cao đẹp của Không Quân, ăn chơi nhưng có tâm hồn văn nghệ cũng như học thức. Ông sáng tác truyện, thơ, những bài phú hoặc văn tế rất hay. Về học vấn, nghe đâu ông sắp sửa làm Tùy Viên Ngoại Giao thì bị hủy bỏ và tống lên Pleiku. Có thể nói ông là người văn võ toàn tài, bọn Sĩ Quan trẻ chúng tôi lắm thằng coi ông là thần tượng! Ông lại không có cái trò nịnh trên nạt dưới, nên tụi tôi càng quý ông hơn! Tài bất phùng thời, vì phải tiếp xúc với lắm kẻ ít học hơn ông trong quân chủng, nên ông lúc nào cũng có cái cao ngạo của loài chim Hồng chim Hộc phải miễn cưỡng sống chung với đám chim sẻ, chim ri. Cuộc đời binh nghiệp của ông vì thế cũng chẳng được xuông xẻ mấy. Tôi xin đan cử vài thí dụ sau: Hồi còn ở Căn Cứ 92, khoảng năm 1971, ông Định lấy tư cách là Sĩ Quan Chiến Tranh Chính Trị, vì vậy phải làm sáng tỏ các lời đồn đại gây ảnh hưởng cho tinh thần binh sĩ. Ông đề cập trong buổi họp Sĩ Quan mà tôi làm thư ký, đến một tin đồn rằng có sự ăn thông của Phòng Kiến Tạo KQ và Khối Không Cụ, có thể có cấp cao hơn, đem vật liệu xây dựng bán ngoài phố. Vụ tố cáo này khiến Trung Tá Phúc ròm, Chỉ Huy Trưởng Căn Cứ bực mình vô cùng, vì ông ta là một vị chỉ huy khá trong sạch. Ông chỉ thị cho An Ninh KQ Căn Cứ điều tra, nhưng không thấy vết tích gì. Cho rằng Thiếu Tá Định tính bêu xấu mình, trong một buổi họp SQ thu hẹp, ông lớn tiếng hỏi Thiếu Tá Định có bằng chứng nào về tin đồn đó không? Thiếu Tá Định ú ớ, không đưa ra được bằng chứng nào cả. Tôi còn nhớ Trung Tá Phúc nghiêm sắc mặt nói: "Anh là Trưởng phòng CTCT mà phao tin đồn nhảm như thế, không biết tự ngượng với mình à. Tôi sẽ phạt anh nín thở, anh biết không?" Sau đó, Thiếu Tá Định phải lãnh một số ngày trọng cấm. Theo thiển ý, trong vụ này, Thiếu Tá Định khá lý tưởng. Khi làm Chỉ Huy Trưởng Không Đoàn 72 Chiến Thuật cũng ở Pleiku, trong một buổi họp Quân Đoàn, khi trận chiến Tân Cảnh đang sôi sục, Thiếu Tá Định đã quyết liệt công kích Tư Lệnh Quân Đoàn II đã cố tình đưa các Pilot của Không Đoàn vào chỗ chết và từ chối thi hành lệnh điều quân của Quế Tướng Công, vì biết chắc chắn nhiều pilot của Không Đoàn sẽ vong mạng vì những lệnh lạc thiếu suy xét này. Hơn thế nữa, nghe nói, ông còn đòi bỏ bom Quân Đoàn II. Hậu quả của việc cưỡng lệnh Tướng Toàn: Vợ chồng con cái Trung Tá Lê bá Định được lệnh phải rời bỏ Pleiku trong vòng 24 tiếng đồng hồ, no excuse! Thế là cuộc đời binh nghiệp của một SQ ngoại hạng đã tan tành như bọt nước. Có lẽ, ngoài 2 món ăn chơi là phạt trọng cấm, đuổi cổ khỏi Quân khu, còn 1 món nữa mới đủ bộ: CẤM KHÔNG CHO GIỮ BẤT CỨ MỘT CHỨC VỤ QUAN TRỌNG NÀO. Khoảng 1988, tôi có về Việt Nam, và có gặp ông xếp cũ là Đại Tá Võ Quế. Nhân nói về Trung Tá Định, ông Quế cho biết, ông Định vì thù ông bạn Đồng Minh phản bội chúng ta, nên nhất quyết không đi Mỹ dù có phương tiện. Ông ở lại Việt Nam, sống thoải mái bằng 2 nghề: dậy Anh Văn và dậy nhẩy đầm. Bây giờ, ông đã ra đi. Chúc ông yên vui nơi một vùng trời nào đó an bình. Với bọn Sĩ Quan "trẻ" chúng tôi, ông lúc nào cũng hiện diện trong ký ức của chúng tôi, dù đó là một ký ức càng ngày càng thu hẹp vì mất mát theo ngày tháng! Trung Tá Lê bá Định, người có một tâm hồn lý tưởng trong một hệ thống Quân đội đầy đố kỵ, lúc nào, với chúng tôi, cũng là một thần tượng.
Nguyễn Giang |