Showing posts with label Đào Hiếu Thảo. Show all posts
Showing posts with label Đào Hiếu Thảo. Show all posts

Sunday, April 29, 2018

Lược Sử Khóa 7/ 68 Không Quân VNCH



Kính thưa quý Niên Trưởng, quý Quan Khách, anh chị em khóa 7/68 KQ và gia đình, 

Xin đa tạ Ban Tổ Chức RU 50 cho chúng tôi dịp may viết lại “Lược sử khóa 7/68 Không Quân VNCH”. Đây là một vinh hạnh, nhưng cũng là một việc không dễ, mong quý vị bổ túc cho những thiếu sót khó tránh khỏi.


Saigon, Việt Nam 1968,  sau hai trận tổng công kích của Việt Cộng, bất ngờ tấn công thủ đô Saigon và hàng chục tỉnh thành khắp miền Nam vào Tết Mậu Thân năm 1968, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa khẩn cấp ban hành lệnh tổng động viên.

Đến giữa năm 1968, thông báo của Bộ Tư Lệnh Không Quân tuyển dụng sĩ quan phi hành và không phi hành được phổ biến trên các nhật báo, đài phát thanh, truyền hình Saigon.

Các ứng viên ngành phi hành đủ điều kiện,  nhận giấy báo, đến trình diện Trung Tâm Y Khoa Không Quân/Tân Sơn Nhất.  Sức khỏe phải toàn hảo, để trở thành phi công điều khiển các loại phi cơ trực thăng, khu trục, quan sát, vận tải của Không Lực VNCH.  Tỷ lệ trúng tuyển là một đến hai phần trăm.

Các ứng viên không phi hành phải trải qua kỳ thi tuyển văn hóa, có phần thi viết về kiến thức tổng quát và trình độ ngoại ngữ. Địa điểm thi là Trường Quốc Gia Nghĩa Tử, cuộc khảo sát kéo dài hai ngày với trên 3000 người. Số thí sinh trúng tuyển khoảng 200 người. Sau đợt khám sức khỏe,  chưa tới 170 được chính thức tuyển dụng.

Tháng 8 năm 1968, các ứng viên phi hành và không phi hành  trúng tuyển được phép vào căn cứ Không Quân Tân Sơn Nhất / Đoàn Tiếp Liệu / Không Đoàn 33, để nhận quân trang, quân dụng, chuẩn bị cho ngày lên đường nhập ngũ.

Ngày 30 tháng 9 năm 1968, tất cả các tân khóa sinh trình diện tại cổng Phi Long và được quân xa GMC đưa đến Trại Nhập Ngũ số 3 / Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung / Trại Nguyễn Tri Phương. 


(L-R): Võ Đoàn Hồng, Đào Hiếu Thảo,
Trần Quang Tuyến, Mai Đức Tuấn (Harlem, Xoắn)
TTHL Quang Trung
(Đào Hiếu Thảo cung cấp ảnh)

NOTE: Double-click vào hình để xem lớn hơn!



Đức Nhể & Đinh Bá Hạnh
TTHL Quang Trung
(Đinh Bá Hạnh cung cấp ảnh)


L-R: Đức Râu, Hảo Phè, Nguyễn Văn Diệm & Đinh Bá Hạnh,
TTHL Quang Trung
(Đinh Bá Hạnh cung cấp ảnh)


L-R: Hảo Phè, Nguyễn Văn Diệm, Đức Nhể, Đinh Bá Hạnh
phía sau là Phan Tuấn Tú
TTHL Quang Trung
(Đinh Bá Hạnh cung cấp ảnh)




Đào Trọng Hiệp, Phạm Trần Dương, Lê Như Dân, Nguyễn Văn Phương
TTHL Quang Trung 1969
(Nguyễn Văn Phương cung cấp ảnh)

Hai hôm sau, 255 khóa sinh dự bị sĩ quan khóa 7/68 Không Quân (93 Phi Hành, 162 Không Phi Hành) được chuyển đến Tiểu Đoàn Nguyễn Huệ (nổi tiếng là khắt khe, kỷ luật sắt) Liên Đoàn A, do Đại Úy Trần Văn Hiến, Trung Úy Phạm Văn Tiền chỉ huy, nhập vào Đại Đội 78 do Trung Úy Trần Thế Phong phụ trách.




Phan Minh Nhơn, Nguyễn Văn Phương
Cùng các bạn 7/68KQ
Bãi Vượt Sông TTHL Quang Trung
(Nguyễn Văn Phương cung cấp ảnh)





Một nhóm 7/68KQ
Tại TT Huấn Luyện Quang Trung
L-R: Phạm Kim Thành (Cậu 5), Nguyễn Công Hải (Thẹo), Trần Đình Phước (Biển Mặn), Trương Văn Thanh (Lùn), Lê Huy Cận (Lùn)


Ngày tổng khai giảng là 7 tháng 10, 1968, chương trình huấn luyện căn bản kéo dài 8 tuần gồm các môn võ khí, chiến thuật, cơ bản thao diễn, tác xạ…dưới cơn nắng nóng cháy da, thức giấc từ 4 giờ sáng, chà láng giao thông hào,  cơm nhà bàn, cá mối làm chuẩn, là những kỷ niệm để đời tại “trung tâm tàn phá sắc đẹp” này, biến những chàng thư sinh thành người lính chiến rắn rỏi.



7/68KQ's
Phan Minh Nhơn, Võ Đoàn Hồng, Nguyễn Văn A, Nguyễn Văn Diệm
Tại TT Huấn Luyện Quang Trung

Bạn Hồ Viết Yên
Bò Hỏa Lực tại TT Huấn Luyện Quang Trung
(Hồ Viết Yên cung cấp ảnh)



Cuối tháng 12, 1968, khóa 7/68 KQ được chuyển đến Trường Bộ Binh Thủ Đức, nhập Đại Đội 38, Tiểu Đoàn 3, do Đại Úy Nguyễn Văn Vinh và Trung Úy Ninh Xuân Đức chỉ huy. Vì thừa quân số (có thêm 30 khóa sinh HSQ KQ theo học giai đoạn 2), một Trung Đội được gởi qua Đại Đội 34 Bộ Binh, do Trung Úy Khiêm chỉ huy, nhập thànhTrung Đội 341. Sĩ quan cán bộ của Trung Đội 341 là Thiếu Úy Nguyễn Văn Lợi.



7/68KQ Trường Bộ Binh Thủ Đức
(Trương Tấn Thảo cung cấp ảnh)




7/68KQ Trường Bộ Binh Thủ Đức
(Trương Tấn Thảo cung cấp ảnh)


7/68KQ Trường Bộ Binh Thủ Đức
(Trương Tấn Thảo cung cấp ảnh)



7/68KQ Trường Bộ Binh Thủ Đức
(Trương Tấn Thảo cung cấp ảnh)


7/68KQ Trường Bộ Binh Thủ Đức 1969
ĐĐ 34 TĐ 341
(Lương Văn Minh cung cấp ảnh)


Chúng tôi được huấn luyện các môn học như chiến thuật (cấp Trung Đội & Đại Đội), địa hình, võ khí, cơ bản thao diễn, quân phong, quân kỷ, đoạn đường chiến binh, cận chiến, tác xạ, chiến tranh chính trị, lãnh đạo chỉ huy, mưu sinh thoát hiểm, di hành, vượt sông và ứng chiến… Đây là những kiến thức, vốn liếng căn bản của một sĩ quan Trung Đội Trưởng Bộ Binh.



7/68KQ ĐĐ 34 TĐ 341
Ứng Chiến Gia Định 1969
Bìa trái đứng là bạn Nguyễn Đình Chiểu
Bìa phải ngồi là bạn Lương Văn Minh
(Lương Văn Minh cung cấp ảnh)




7/68KQ Hành Quân Mãn Khóa
Cổng Số 9 Trường Bộ Binh Thủ Đức 1969
(Nguyễn Văn Phương chụp & cung cấp ảnh)


Đến ngày mãn khóa, 12 tháng 4, 1969, các khóa sinh 7/68 KQ được mang cấp Chuẩn Úy và được quân xa đón về Bộ Tư Lệnh Không Quân, nhận giấy nghỉ phép một tuần, sau đó trở lại trình diện Khối Huấn Luyện để đi thụ huấn ngành chuyên môn.


Bằng Tốt Nghiệp Sĩ Quan Căn Bản Bộ Binh
Của anh Trần Văn Ria
(Phạm Văn Phú cung cấp ảnh)


Chuẩn bị du học Hoa Kỳ, các sĩ quan phi hành học trường Anh Ngữ tại Saigon, sĩ quan không phi hành học Anh Ngữ tại Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang (54 khóa sinh, do Đại Úy Tôn Thất Lăng phụ trách).


Thư Mời SQKQ Qua Học Anh Văn tại Lackland AFB TX
(Nguyễn Đình Nguyên cung cấp thư)



Bằng Tốt Nghiệp Anh Ngữ
English Language School, Lackland AFB 1970
(Trần Đình Phước cung cấp ảnh)


Những sĩ quan phi hành đầu tiên hoàn tất khóa Anh Ngữ xuất ngoại du học vào tháng 8, 1969.  Sĩ quan không phi hành tốt nghiệp Trường Anh Ngữ Nha Trang, lên đường tháng 9, 1969. Một số bạn đến căn cứ Không Quân Lackland, San Antonio, Texas để tiếp tục các khóa Anh Ngữ. Số khác đi thẳng đến các quân trường thụ huấn chuyên môn.


Khóa 5 Sĩ Quan Bảo Trì Phi Cơ Ngày Mãn Khóa
TTHLKQ Nha Trang
(L-R: Hàng đứng: Huỳnh Công Minh, Nguyễn Tài Xuyên, Nguyễn Văn A, Nguyễn Văn Giàu, Nguyễn Quang Tầm, 4 SQ Trường Kỹ Thuật, Lương Thế Cường, Lê Cảnh Hối, Nguyễn Văn Phương, Phạm Huy Hùng, Lê Như Dân.  Hàng ngồi: Trần Ngọc Nguyên, Nguyễn Bá Đức, Trương Hữu Trung, Phạm Kim Thành, Phạm Văn Điệp, Nguyễn Văn Tuyên, Trần Văn Chính, Trần Khánh, Nguyễn Mạnh Trinh - Nguyễn Văn Phương cung cấp ảnh)


Sau khóa Anh Ngữ, sĩ quan phi hành khóa 7/68 KQ được huấn luyện trên các loại phi cơ trực thăng, khu trục và vận tải tại các căn cứ  Không Quân Hoa Kỳ.


Quyết Định Cấp Phát
Chứng Chỉ Trưởng Phi Cơ Trực Thăng UH-1
(Nguyễn Đình Nguyên cung cấp)


Sĩ quan không phi hành được thụ huấn tại các căn cứ Không Quân, Lục Quân Hoa Kỳ tùy ngành nghề chuyên môn.



Khóa 7 70-26A2
Ft Wolter TX
(Đoàn Quý Trọng cung cấp ảnh)




Học Anh Ngữ tại Lackland AFB, 1969
L-R: Chu Văn Hải, Đào Hiếu Thảo, Trình (Khóa 8), Tòng Zimbo, Lê Huy Cận và Nguyễn Đứ Hân (anh của Nguyễn Đức Hoan)
(Chu Văn Hải cung cấp ảnh)




Các Tân Sĩ Quan Trong Quân Phục
Đang Du Học Ở Những Trường Chuyên Môn
(Phước BM cung cấp ảnh)


Phiếu Huấn Luyện Cá Nhân
Để theo dõi sức học hành của khóa sinh du học
(Nguyễn Đình Nguyên cung cấp)



Khóa 7/68 KQ chúng ta có các phi công bay trực thăng H 34, UH 1, Chinook CH 47, khu trục A 1 H, phản lực A 37, F 5, vận tải cơ C 47, C 119, C 123, C 130, quan sát cơ L 19 và U 17.

Ngành không phi hành, anh em khóa chúng ta được đào tạo và phục vụ về Quản Đốc Nhân Lực, Bảo Toàn (Bảo Trì), Tiếp Liệu, Không Lưu Khí Tượng, Kiểm Báo, Quân Báo, Hành Chánh, Tài Chánh, Truyền Tin Điện Tử, Huấn Luyện, Chuyển Vận, Chiến Tranh Chính Trị, Quân Cảnh, Phòng Thủ, Kiến Tạo, Vũ Khí, Data Automation…



7/68KQ Chờ Đi Du Học
chụp ảnh kỷ niệm tại Đại Đội Hành Dinh Không Quân
(Trần-Công Anh-Dũng cung cấp ảnh)


Trước tháng 4, 1975, nhiều bạn cùng khóa được gởi đi học các ngành kỹ sư công chánh, công nghệ… tại Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ để đào tạo nhân tài cho kế hoạch Hậu Chiến.

Khóa 7/68 KQ có mặt tại Bộ Tư Lệnh Không Quân, Tư Lệnh Bộ (Văn Phòng ba vị Tướng Lãnh số 1, 2 và 3 của KQVN), các Sư Đoàn 1, 2, 3, 4, 5, 6 Không Quân, Bộ Chỉ Huy Kỹ Thuật Tiếp Vận, Bộ Chỉ Huy Hành Quân Không Quân, Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang, Liên Đoàn Kiểm Báo.


Không Vụ Bạ Cá Nhân
(Nguyễn Đình Nguyên cung cấp)


Ngày 7 tháng 10 năm 1970, khóa 7/68 KQ thăng cấp Thiếu Úy Hiện Dịch Thực Thụ. Ngày 7 tháng 10, 1972, thăng cấp Trung Úy Hiện Dịch Thực Thụ.  Có một số anh em được thăng cấp Đại Úy Hiện Dịch Nhiệm Chức từ giữa năm 1974.



768KQ Nghị Định Tr/Úy
Nghị Định Thăng Cấp Trung Úy
(Tổng cộng 5 trang)
(Cung cấp bởi Đào Trọng Hiệp)


Thưa quý Niên Trưởng, quý anh chị khóa 7/68 KQ, kỷ niệm 50 năm ngày nhập ngũ, qua 18 ngàn 250 ngày mà anh em chúng ta còn đến được với nhau, còn ở đây sum họp chung vui, thật là một may mắn quý báu trong những ngày còn lại của một kiếp người ngắn ngủi, phù du.

Nửa thế kỷ đã qua, nhưng những nick name độc đáo, bất hủ vẫn luôn ghi nhớ trong tim óc chúng ta, xin list ra sau đây (thứ tự theo tên): 



Ba Can Đảm, Biên Lùn, Cận Lùn, Cảnh Hù, Cảnh Kều, Châu Công Công, Chính Sẹo, Công Gồng, Công Ngủ, Đỗ Hột Le, Đổng Da Trâu, Đức Cớp (Đức Cống), Đức Nhể, Đức Râu, Đức Y Tá, Dũng Điếm, Dũng Mexico, Giang Thi Sĩ, Hải Mèo, Hải Phè, Hải Thẹo, Hạnh Hynos, Hảo Phè, Hiển Trố, Hiếu Giả Địch, Hiếu Phè, Hòa Lậu, Hoa Number One, Hoàng Già, Hồng Lìn, Huấn Ma Gà, Hùng Đít Diêu, Hùng Nhà Thờ, Hùng Râu, Hưng Tabu, Hùng Tàu, Hưng Tôn Giáo, Hùng Trâu Nước, Khải Sữa, Khanh IBM, Kim Méo, Lập Huế (Lập Trọ Trẹ, Lập Rỗ, Lập Trắng, Liêm Già, Long Giác Đấu (Long Phó Nhòm), Luận Lucky, Mai Đầu Bạc, Minh Cà Hùm, Minh Nhủi, Nghĩa Dừa, Nguyên Bi Vuông, Nguyên Cò, Nhan Bố Già, Ông Già Củ Nừng (Xuyên Thầy Bói), Phiên Mù, Phước Biển Mặn, Phương Baby, Quế Xích Lô, Quí Đầu Bò, Quỳnh Móm, Sơn Con, Sơn Trâu Nước, Sơn Tù Trưởng, Tâm Hột Le, Tâm Nhà Bếp, Tân Côn Đồ, Tấn Lìn, Thân Đèn Cầy, Thân Khỉ (Thân Đại Khí, Thân Thấy Chưa), Thành Cáo, Thành Cậu Năm Sadec, Thanh Cún, Thanh Lùn, Thành Lưỡi Lê, Thành Truyền Tin, Thảo Đại Diện (Thảo Hột Mít, Thảo Babylac), Thảo Mặt Ngựa, Thốn Lùi, Tịnh Khùng (Tịnh Trung Tướng), Tín Chửa, Tín Khùng, Toản Nhà Bàn, Tòng Zimbo, Trí Đen, Trí Sữa (Trí Thư Ký Đại Đội), Triết Hội Đồng, Trực Ngựa, Trung Chứng Chỉ, Trung Kỷ Luật (Trung Mù), Trung Quân Cảnh, Tuân Thầy Bói, Tuấn Heo (Tuấn Harlem, Tuấn Xoắn), Tuyến Trâu, Tú Lùn, Tý Chuột, Xuân Mũi Đỏ, ... (Xin các bạn vui lòng bổ túc!)

Xin kính cẩn nghiêng mình, tưởng nhớ các bạn đồng khóa đã anh dũng hy sinh đền nợ nước, cùng các bạn đã vĩnh viễn từ bỏ cõi đời này.

Trân trọng kính chào và cầu chúc quý anh chị và gia quyến luôn an vui, may mắn, hạnh phúc, mạnh khỏe và thành đạt.

Đào Hiếu Thảo
Số quân 67/601 585
Chỉ số: 7254 & 7016
KBC 3011






Saturday, September 12, 2015

Buổi Picnic Hè 2015

Của Cộng Đồng Việt Nam
Vùng Hoa Thịnh Đốn

Đào Hiếu Thảo

VIETV DC





Monday, July 7, 2014

Mẹ Hiền Của Chúng Tôi

Đào Hiếu Thảo


Washington DC, September 26, 2012

Nhân Mùa Vu Lan báo hiếu, xá tội vong nhân, đền đáp công ơn sinh thành của bậc làm cha mẹ, tôi xin bày tỏ nỗi vui mừng vô biên vì tôi còn diễm phúc được cài lên áo một đoá hồng đỏ tươi thắm, nhờ còn có mẹ hiền để phụng dưỡng, chăm sóc, an ủi trong tuổi hạc của đời người.

Trong bài thơ và tập truyện “Bông Hồng Cài Áo” của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh có giòng thơ nói lên tình mẫu tử bao la, không bến bờ của hiền mẫu:

Mẹ già như chuối Ba Hương,
Như xôi Nếp Một như đường Mía Lao

Hay như những câu thơ của Hoàng Long nói về lòng Mẹ:

Mẹ đã cho con nhiều hạnh phúc
Dạy cho chúng con biết điều hay
Mẹ cũng chăm con từng giấc ngủ
Mỗi lần con về bên Mẹ, Mẹ ơi!

Là chị cả trong một gia đình có một em trai và ba em gái, mẹ tôi phải vào đời rất sớm phụ giúp bà ngoại tôi lo lắng cho các em, vì ông tôi chạy vất vả kiếm sống quanh năm xa nhà, có khi sang tận bên Pháp làm ăn cả chục năm ròng rã. Mẹ tôi vừa làm vừa học, nhờ cố gắng và chuyên cần, năm 19 tuổi, mẹ tôi đã thi đậu bằng Diplome (Thành Chung) năm 1942 và được nhận vào làm giáo viên tiểu học, sau đó trúng tuyển kỳ thi làm công chức ngành tài chánh cho chính phủ bảo hộ Pháp tại Saigon.

Ba tôi tốt nghiệp nghề thư ký kế toán nên cũng được phục vụ Bộ Tài Chánh cùng thời ấy, hai người quen nhau và lập gia đình năm 1946. Ba tôi cũng là con trai trưởng có 7 em, nhà nghèo, đông con, ông bà Nội đều làm lụng cật lực để nuôi sống gia đình, ông làm thợ may, bà bán gà vịt trong Chợ Bến Thành.

Sau khi lập gia đình cha mẹ tôi phải cùng lo cho các em ăn học, các cô chú, cậu dì cộng lại trên 10 người còn ở lứa tuổi vị thành niên. Với đồng lương công chức không đủ sống, cha mẹ tôi phải làm thêm những công việc phụ, buôn bán chút ít, kiếm thêm lợi tức.

Nhờ sự tiếp tay của bạn hữu, ba tôi mở trường dạy lái xe hơi (auto école) trên đường General Lizé (Phan Thanh Giản) quận 3 Saigon. Mẹ tôi vừa làm thư ký vừa dạy luật đi đường và theo các huấn luyện viên làm thông ngôn khi có học viên người Pháp.

Vào thời điểm quân đội Quốc Gia Việt Nam mới được thành lập hồi đầu thập niên 50, trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức, Nam Định được hình thành để tào tạo sĩ quan người Việt, trước đó các đơn vị quân đội viễn chinh và quân đội Việt Nam đều do các sĩ quan Pháp chỉ huy.

Đang làm việc cho chính phủ Nam Kỳ, năm 1952 ba tôi phải lên đường nhập ngũ vào khoá 2 Thủ Đức, ông được chọn sang phục vụ ngành quân y và đi du học tại trường Quân Y Pháp ở thành phố Lyon. Về nước ông được bổ nhiệm là quản lý quân y viện Chi Lăng (sau, cơ sở này được sử dụng làm trường nữ trung học Trưng Vương) Chi Lăng chuyển lên Gò Vấp, phát triển thành quân y viện Cộng Hoà.

Năm 1957, ba tôi bị bệnh nan y, được cho qua Pháp điều trị nhưng biết mình không qua khỏi nên ông xin quay về nước và từ trần ngày 5 tháng 6 năm 1957, hưởng dương 35 tuổi để lại vợ và bốn con, lớn nhất là tôi, 10 tuổi, ba em, 2 trai và 1 gái tuổi từ 3 tới 6. Nhờ được quy trách là cha tôi qua đời vì công vụ nên toà án hành chánh công nhận anh em chúng tôi là Quốc Gia Nghĩa Tử, được chánh phủ dành cho một số đặc ân và quyền lợi đối với cô nhi, quả phụ tử sĩ.

Sau khi cha tôi qua đời, mẹ tôi xin trở lại làm công chức tại Tổng Nha Ngân Sách và Ngoại Viện, để có thể hưởng đồng lương khá hơn, mẹ tôi đã tự học để tham gia các kỳ thi tuyển công chức hạng ngạch cao hơn. Kế đó mẹ tôi được chuyển sang Phủ Tổng Uỷ Dinh Điền, Bộ Nông Nghiệp, Bộ Kinh Tế & Tài Chánh. Nhiệm sở cuối cùng của bà là Chủ Sự Phòng Nghiên Cứu, Tu Thư, Trung Tâm Huấn Luyện Hợp Tác Xã thuộc Bộ Cải Cách Nông Thôn, trụ sở tại Gia Định.

Ngoài những kỳ thi thăng bậc, mẹ tôi cũng học thêm tiếng Anh tại Trung Tâm Ngoại Ngữ và trường đại học Văn Khoa Saigon.

Năm 1963, 16 tuổi đời, tôi đã trưởng thành hơn các bạn cùng lứa, đã biết thế nào là thiếu cha và nghèo khó. Muốn vươn lên trong cuộc đời, tôi đã sớm biết sự thiết yếu của mảnh bằng nên ngoài việc chăm lo học hành, tôi bắt đầu kiếm việc dạy kèm trẻ em tại tư gia để ít, nhiều phụ giúp với mẹ lo cho các em.

Bắt đầu năm 1966, tôi được tuyển vào làm xướng ngôn viên tin tức, thời sự đài phát thanh Saigon, sau đó được biệt phái qua truyền hình quốc gia. Em trai kế tôi cũng đi dạy kèm trẻ lúc mới lên 17 , năm 1969, em được học bổng quốc gia du học tại Bruxelles, vương quốc Bỉ. Em gái tôi tốt nghiệp Quốc Gia Thương Mại, được bổ nhiệm làm việc tại Đoàn Chuyên Viên Thuế Vụ, Bộ Tài Chánh. Em trai út của tôi được học bổng quốc gia cho qua Đài Loan học ngành sản xuất đường mía.

Thấy mẹ luôn chịu khó, chịu cực, sống kham khổ, tiện tặn, tiết kiệm từng đồng, không muốn đi thêm bước nữa, quyết thờ chồng, nuôi dạy con cái thành người nên mấy anh em chúng tôi cũng thấu hiểu gương hy sinh đó mà cố gắng vươn lên khỏi chốn “bùn lầy, nước đọng” là nơi tập trung phần lớn giới lao động tức là những người thấp cổ bé miệng trong xã hội.

Khi mẹ buồn mẹ khóc vì tánh cứng đầu, ương ngạnh của tôi, nhìn nước mắt mẹ lăn trên gò má hóp của bà, tôi tự hứa sẽ không làm bà phiền muộn, khổ tâm vì bà luôn căn dặn tôi “giọt nước trước rớt xuống đâu, mấy giọt sau cũng y như vậy” tức là tôi phải làm gương tốt cho ba đứa em. Lắm lúc mẹ tôi với tính nghiêm khắc, cứng rắn đã phải dùng đến đòn roi để răn dạy, uốn nắn tôi nhưng vừa buông roi thì bà oà khóc, âu lo, vì tình thương con, sợ con hư hỏng, lầm lạc, dễ sa ngã, sai phạm.

Mỗi ngày đến sở mẹ tôi chỉ đi xe bus, xe lam (Lambretta), ra vùng ngoại ô như Khánh Hội, Gia Định, Gò Vấp, Hạnh Thông Tây... thì ngồi xe ngựa (chuyện có thật của 55 năm về trước), khi cần đi đâu gần nhà bà ráng đi bộ. Thấy mẹ mặc hoài mấy cái áo dài cũ, bạc màu, khi cầm trong tay 1500 đồng, tháng lương đầu tiên của nghề kèm trẻ, tôi đưa mẹ ra cửa hiệu may một áo dài, công và vải hết có 80 đồng, số lương tháng này vào năm 1963 đối với gia đình tôi là một khoản ngân sách khá dồi dào. Anh em chúng tôi được mẹ mua sắm quần áo, giày dép mới vào dịp Tết, đưa đi xem các thắng cảnh quanh Saigon, được xem hát, ăn nhà hàng để không cảm thấy thua sút bạn bè đồng trang lứa, còn mẹ thì không lo nghĩ gì cho riêng bà, cố ăn chay, niệm Phật, đến chùa để tìm sự bằng an, thanh thản tâm hồn nơi cửa thiền.

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, trong khi tôi đi tù cộng sản, mẹ tôi đi dạy trẻ tiếng Pháp, tiếng Anh, tại tư gia các em, di chuyển bằng xe đạp, mong kiếm chút tiền mua quà gởi bưu điện vào trại giam tiếp tế cho tôi.

Năm 1979 mẹ tôi được em trai kế bảo lãnh qua Bỉ định cư, qua chương trình sum họp gia đình do UNHCR tài trợ. Vừa đến Bruxelles, mẹ tôi nhận giữ trẻ cho các gia đình Việt Nam, được cho chỗ ăn ở, một thời gian sau, mẹ tôi được một gia đình quý tộc nhận làm quản gia cho một phụ nữ Bỉ đơn chiếc, ở một lâu đài tại Liege, cách Bruxelles gần 100 km. Làm ra tiền, mẹ tôi gởi về cho các con cháu sinh sống ở Saigon và đứa con trai đầu lòng còn ngồi tù trên đất Bắc.

Mẹ tôi cũng gởi liên tục những lá thư đến Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế, Tổ Chức Ân Xá Quốc Tế, Tổng Thống Pháp Francois Mitterand, Quốc vương Baudouin và Hoàng hậu Fabiola của Bỉ, thỉnh cầu can thiệp cho trường hợp của tôi bị giam cầm, biệt xứ và đầy đi lao động khổ sai, từ tháng 6 năm 1975.

Đến Bruxelles năm 1982, sau 6 năm ngồi tù cộng sản, tôi trông chờ từng ngày để được gặp mẹ nhưng lúc đó bà đang làm việc ở xa mà tôi thì không có phương tiện đến với bà. Nhớ khi còn trong tù, anh em bạn tù biết xem tướng số và tử vi, một lần xem cho tôi có nói là dù ra được một xứ sở tự do, tôi chưa có thể gặp lại mẹ ngay mà phải chờ thêm ít nhất là một tháng sau, lời suy đoán này quả không sai chút nào.

Giây phút gặp lại mẹ sau nhiều năm xa cách, như được trở về từ cõi chết, thoát ngục tù cộng sản, ra được thế giới bên ngoài, tôi tưởng chừng mình đang nằm mơ, nghẹn ngào, rơi lệ cho dù tôi rất lì lợm, không bao giờ khóc trong những hoàn cảnh dù khắc nghiệt, nan giải nhất. Mẹ tôi dành dụm cho vợ con tôi chút tiền, mua quà bánh, riêng tôi thì bà cho một bao quần áo, giày cũ để đi làm thợ nấu bếp nhà hàng Tàu.

Khi bày con, dâu, rể, cháu nội, ngoại đến đông đủ trên quê hương mới đoàn tụ thì mẹ tôi đã gần 70 tuổi và bắt đầu xin vào chùa Linh Sơn rồi chùa Hoa Nghiêm, ở Bruxelles tu hành, nương nhờ Cửa Phật. Nhờ vốn liếng tiếng Pháp từ làm cô giáo và công chức thời Pháp thuộc, mẹ tôi giúp thông dịch giáo lý cho người bản xứ đến lễ chùa để họ tiện theo dõi.

Bà cũng xuất hiện trên truyền hình Bỉ để giới thiệu về Đạo Phật và sự nhiệm màu, cứu rỗi trong đời sống của chúng sinh muôn loài.

Dù đến bao nhiêu tuổi đời, anh em chúng tôi đã trên dưới sáu mươi, mẹ tôi vẫn luôn xem chúng tôi như thời còn thơ ấu, ngày đêm lo âu, phập phòng, sợ sệt đủ điều, căn dặn, khuyên nhủ từng ly, từng tí, phải làm cái này, tránh điều kia, đừng vấp chuyện nọ. Như một thói quen, mỗi khi hốt hoảng, âu lo hay lúc mừng vui, tôi thường kêu lên “Má Ơi”.

Được nghe tiếng nói ấm áp, ân cần, gần gũi của mẹ, tôi thấy yên tâm, vững chãi hơn, nhất là những lúc thất bại, chán chường cho tình đời “ba chìm, bảy nổi”, ngược xuôi, phiền muộn, ngang trái, bấp bênh.

Năm nay mẹ tôi được 90, dáng người mảnh khảnh, nhưng tinh thần sáng suốt, đầy nghị lực, hàng ngày vẫn đọc sách, tụng niệm, may vá, theo dõi thời cuộc. Tôi cầu xin cho má luôn được mạnh khoẻ, bình an để con cháu được báo hiếu, phụng dưỡng, đền đáp công ơn, sự hy sinh, nhẫn nại của bà, trọn đời lo lắng cho các con các cháu. Mong má sống lâu 100 tuổi, Má ơi.

Bruxelles, Thứ Hai, Ngày 7 tháng 7 năm 2014

Nay Má đã vĩnh viễn xa cách các con cháu rồi, cầu cho Má ngàn thu an giấc nơi cõi Vĩnh Hằng, tiêu diêu Miền Cực Lạc và phò hộ cho con cháu luôn được bình an, may mắn, mạnh giỏi. Vĩnh Biệt Má, Má ơi.

Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.

Friday, December 27, 2013

Nghe Bạn Mình Hát

Hò Lờ

Trần Công Anh Dũng





Tập hát "Bạch Đằng Giang"

Ban Đồng Ca 7/68 KQ





"Birthday Song" & "Em Kỳ Diệu" Thơ

Chị Đoàn Lương đọc thơ





Tình Lính

Đào Hiếu Thảo





Đêm Không Quân Quê Người - Vũ Khanh

Trương Tấn Thảo





Lối Về Xóm Nhỏ - Trịnh Hưng

Tốp Ca "Xóm Nhà Lá"

(L-R: chị Linh, chị Triết, chị Khanh, chị San, chị Biên, chị Nhan)




Bây Giờ Tháng Mấy - Từ Công Phụng

Nguyễn Hữu Triết





Tôi Đi Giữa Hoàng Hôn

Nguyễn Giang





24 Giờ Phép

Chị Trương Văn Tập





Túp Lều Lý Tưởng

Chị Kim Khôi, Chị Thúy Anh & chị Hàn Vinh





Có Những Người Anh & Tôi Viết Tên Anh

Tứ Ca "Bốn Vì Sao Sẹt"

(L-R: chị Châu Chi, chị Dzuyên Hà, chị Hoàng Anh, chị Hàn Vinh)




Làng Tôi

Tốp Ca "Xóm Nhà Lá"

(L-R: chị Hướng, chị Giang, chị Nhan, chị Biên, chị Hoa, chị Khôi)




Đường Xưa - Quốc Dũng

Thanh Chi





Mưa Thì Thầm

Duyên Hà





Autumn Leaves

Thúy Anh





Tôi Yêu Quê Tôi

Chị Hướng & Chị Biên





Tập Hát "Cô Gái Việt"

Tốp Ca Nữ 7/68 KQ








Wednesday, September 18, 2013

Bảy Năm Phục Vụ Không Quân Việt Nam Cộng Hoà 1968-1975

Đào Hiếu Thảo


Không Quân hay Không Lực Việt Nam Cộng Hoà được xếp hạng tư của thế giới, theo đánh giá của Ngũ Giác Đài và các chuyên gia quốc phòng Tây Phương, nhưng lại không nói ba quốc gia đứng đầu danh sách là những nước nào, ai muốn đoán thế nào cũng được, vậy cứ cho là Không Quân Việt Nam Cộng Hoà xếp sau Mỹ, Nga và Trung Quốc. Nhiều thắc mắc được nêu lên, như thế không quân các nước Anh, Pháp, Đức, Ý, Australia, Nhật, Đài Loan thì được xếp hạng mấy, trên hay dưới Việt Nam?

Xin được nói thêm là công tác đấu tranh chính trị, vận động quần chúng, hoạt động tâm lý chiến là phương cách đã từng được Trung Hoa Cộng Sản, Trung Hoa Quốc Gia, Hoa Kỳ cũng như Khối Cộng Sản đặt lên hàng đầu trong chiến dịch giáo huấn, trang bị tư tưởng vững chắc cho quân lính.

Muốn thuyết phục người khác, muốn họ tin vào những gì mình nói thì trước hết người chiến sĩ Chiến Tranh Chính Trị phải tin tưởng nơi chính mình. Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà và Không Lực Việt Nam được Đồng Minh xếp vào hàng thứ 4 trên thế giới, có lẽ họ nói không sai. Chú Sam muốn là được.

Theo tài liệu quân sử thì Không Quân hay Không Lực Việt Nam Cộng Hoà được chính thức thành lập vào ngày 1 tháng 7 năm 1955, với khẩu hiệu “Tổ Quốc và Không Gian”. Trong giai đoạn sơ khai từ 1951, Ban Không Quân trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu, Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, các chức vụ chỉ huy và bay chính, đều do các sĩ quan Pháp đảm nhận.

Lúc mới thành lập quân chủng Không Quân được Pháp giao lại 25 phi cơ vận tải C 47, 25 phi cơ khu trục cánh quạt F 8 F, hai phi đoàn quan sát với 30 máy bay liên lạc L 19. Trung tá Nguyễn Khánh là sĩ quan Việt Nam đầu tiên giữ chức phụ tá Không Quân cho Thiếu tướng Nguyễn Văn Hinh, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Quốc Gia Việt Nam.

Thủ tướng Ngô Đình Diệm thành lập nền đệ nhất Cộng Hoà sau cuộc trưng cầu dân ý hồi năm 1955, bổ nhiệm Trung Tá Trần Văn Hổ làm tư lệnh Không Quân đầu tiên.

Năm 1957, các căn cứ Không Quân Tân Sơn Nhất, Biên Hoà, Đà Nẵng được mở rộng thêm, Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang được khánh thành để huấn luyện nhân sự tại quốc nội. Nhiều sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ thuộc những ngành chuyên môn đặc biệt được cử du học tại các trường không quân Hoa Kỳ.

Năm 1961, Hoa Kỳ cung cấp cho Không Quân Việt Nam nhiều phi cơ huấn luyện T 28, oanh tạc cơ hạng nhẹ B 26, vận tải cơ C 47. Liên đoàn 1 vận tải được thành lập do Trung tá Nguyễn Cao Kỳ chỉ huy. Các hệ thống hướng dẫn và kiểm soát không lưu được trang bị cho các phi trường Tân Sơn Nhất, Biên Hoà, Đà Nẵng, Pleiku.

Năm 1962, các đơn vị Không Quân tác chiến và yểm trợ chiến trường được nâng thành cấp Không đoàn chiến thuật, Không đoàn 41 ở Đà Nẵng, Không đoàn 62 Nha Trang, Không đoàn 23 Biên Hoà, Không đoàn 33 Tân Sơn Nhất, Không đoàn 74 Cần Thơ.

Dưới nền đệ nhị Cộng Hoà, năm 1965 Không Quân Việt Nam được Hoa Kỳ chuyển giao nhiều phi đoàn oanh tạc cơ A 37, máy bay không vận cỡ lớn C 130, trực thăng vận tải Chinook.

Cũng vào thời điểm này, các phi cơ khu trục Skyraider A1H của Không Quân Việt Nam mở nhiều đợt oanh kích, tấn công những mục tiêu cộng sản, phía Bắc vĩ tuyến 17.

Năm 1967, Không Quân Việt Nam được trang bị phi đoàn phản lực cơ chiến đấu F 5 đầu tiên.

Năm 1970, theo chương trình phát triển khẩn cấp, tối tân hoá Không Quân Việt Nam do Hoa Kỳ tài trợ, hầu đáp ứng khả năng chống trả kế hoạch xâm lược từ phía Bắc, các Không đoàn chiến thuật được nâng lên cấp Sư Đoàn Không Quân. Sư đoàn 5 Không Vận được thành lập tại Tân Sơn Nhất, Sư đoàn 6 Không Quân đặt bản doanh ở Pleiku để chia sẻ trách nhiệm với Sư đoàn 2 Không Quân ở Nha Trang cùng yểm trợ phi pháo và hành quân trực thăng vận cho 12 tỉnh thuộc Quân Khu II.

Tính đến tháng 4 năm 1975, Không Lực Việt Nam Cộng Hoà có gần 70 ngàn quân nhân các cấp, hơn 2,000 phi cơ đủ loại, với 5 Sư Đoàn tác chiến, một Sư Đoàn Không Vận, Bộ Chỉ Huy Kỹ Thuật Tiếp Vận, Bộ Chỉ Huy Hành Quân Không Quân, Không Đoàn Kiểm Báo, Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang, Trung Tâm Y Khoa Không Quân.

Mỗi Phi đoàn lấy danh hiệu có 3 số, nếu số đầu là 1, ví dụ Phi Đoàn 116 là liên lạc, quan sát. Số 2, như Phi Đoàn 215 là trực thăng chiến đấu, Biệt Đội 259 A, là tản thương, số 3 như Phi Đoàn 314 đặc vụ, là chuyên chở VIP, số 4 như Phi Đoàn 427 là vận tải, số 5 như Phi Đoàn 522 là khu trục oanh tạc, chiến đấu cơ, không có Phi Đoàn nào mang số 6, số 7 như Phi Đoàn 718 là thám sát, tác chiến điện tử, số 8 như Phi Đoàn 821 là Tinh Long, soi sáng trận địa, tác xạ bằng đại liên và số 9 như Phi Đoàn 918, chuyên huấn luyện phi công tương lai. Ngoài ra còn có hai Phi Đoàn bạn là 817 Hoả Long và 819 Hắc Long. Các phi đoàn này được trang bị phi cơ C-119, C-123, C-130. KQVN còn có C-47, C-7 (Caribou).

Dù tin hay không tin là Không Lực Việt Nam Cộng Hoà từng xếp hạng tư của thế giới, nếu căn cứ vào tài liệu thống kê, quân sử thì toàn là những con số khô khan như đã nói ở trên đây, nhưng có sát cánh bên các đồng đội, chiến hữu, nhất là trong những hoàn cảnh éo le, gian nguy, mới hiểu và thấy rõ là vì lòng yêu đất nước, quý đồng bào mà họ không màng đến tính mạng, chỉ muốn hoàn thành trách nhiệm, làm tròn bổn phận trai thời loạn ly.

Như bao chiến hữu Nhảy Dù, Biệt Kích, Thuỷ Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, Người Nhái,... phần đông anh em phi công sau khi tốt nghiệp đều thích chọn những đơn vị tác chiến trực diện với đối phương. Họ xung phong bay trực thăng ở cao độ thấp, thả anh em Biệt Kích Dù ngay trong lòng địch. Nhiều phi công khu trục hăng hái lên đường theo biệt đoàn thực hiện các phi vụ Băc Tiến, lắm người đã hy sinh khi phi cơ bị hoả lực phòng không địch bắn trúng như các anh Phạm Phú Quốc, Vũ Khắc Huề... Trong một phi vụ thả Biệt Kích trên đất Bắc ban đêm, máy bay vận tải C 47 bị trúng đạn, anh Phan Thanh Vân, phi công trưởng cùng phi hành đoàn và lính Biệt Kích bị trọng thương, ngồi tù hàng chục năm, nhiều đồng đội chết hôm ấy.

Bao trường hợp tình nguyện bay thế lúc tình hình khẩn cấp đòi hỏi như Chuẩn tướng Nguyễn Huy Ánh, Tư lệnh Sư Đoàn 4 Không Quân Cần Thơ, đích thân lái trực thăng đi câu một phi cơ quan sát lâm nạn, vì lúc đó cần một phi công dày dạn kinh nghiệm như ông mới đảm nhiệm được phi vụ tử thần ấy. Tướng Ánh đã tử thương vì trực thăng do ông điều khiển bị mất cân bằng, vì sức gió quá mạnh đánh bật máy bay quan sát mà ông cố câu lên để chuyển về căn cứ. Giây cáp cột máy bay bị đứt thình lình, quấn vào đuôi trực thăng khiến tàu bay này đâm xuống đất. Cố Thiếu Tướng Nguyễn Huy Ánh hưởng dương 38 tuổi.

Tôi cũng nhớ rõ có nhiều chiến hữu Không Quân được xét thăng cấp, chưa kịp “rửa lon”, ăn mừng, chưa được gắn cấp bậc mới đã lên đường ra chiến tuyến và hy sinh trong lúc truy kích hàng loạt các chiến xa Miền Bắc vượt vĩ tuyến tiến vào đất Quảng Trị.

Một phần công việc hàng ngày của tôi, trong phương vị sĩ quan thông tin báo chí là nói lên lòng gan dạ, những gương hy sinh ấy, phổ biến thành quả hoạt động của Không Lực Việt Nam Cộng Hoà trên toàn lãnh thổ, qua phương tiện truyền thông quốc nội và báo chí ngoại quốc.

Trước năm 1965, ngành Chiến Tranh Chính Trị chưa được cải tổ, nhân sự chưa được tuyển chọn, đào tạo có bài bản. Dưới thời Pháp, phần lớn sĩ quan Tâm Lý Chiến là thành phần không được ai ưa thích, không biết phải cho ngồi đâu, đành phải bổ sung cho các phần sở về chiến tranh tâm lý, với hoạt động chính là chỉ lo ca hát, giải trí.

Dưới nền đệ nhị cộng hoà, Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị được thành lập do Trung tướng Trần Văn Trung chỉ huy, trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu, bên cạnh Tổng Cục Tiếp Vận, Tổng Cục Quân Huấn.

Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị đặt hệ thống chỉ huy ngang dọc từ các quân binh chủng, quân khu, tiểu khu, chi khu đến các sư đoàn, tiểu đoàn, đại đội tác chiến và yểm trợ. Ngoài ra còn có các tiểu đoàn và đại đội Chiến Tranh Chính Trị ở trung ương cũng như tại bốn vùng chiến thuật.

Sáu hình thái chiến tranh được áp dụng trong chương trình đào tạo, hướng nghiệp và phương châm hoạt động của các chiến sĩ Chiến Tranh Chính Trị bao gồm: Tư Tưởng Chiến, Tổ Chức Chiến, Tâm Lý Chiến, Tình Báo Chiến, Mưu Lược Chiến và Quần Chúng Chiến, nói chung là “Lục Đại Chiến” do quân đội Trung Hoa Quốc Gia sáng tạo.

Chương trình đào tạo sĩ quan, hạ sĩ quan Chiến Tranh Chính Trị được đảm nhiệm bởi Đại Học Chiến Tranh Chính Trị Dalat, hoặc gởi đi thụ huấn tại Đài Loan và Hoa Kỳ. Những cá nhân lo phần hành về Tâm Lý Chiến trước đây, thường được xem là “ngồi chơi, xơi nước”, bị thay thế dần bằng nhân sự có khả năng, được huấn luyện đúng quy cách, tại các quân trường nổi tiếng thế giới.

Một số chiến sĩ Chiến Tranh Chính Trị Không Quân được người dân Miền Nam biết đến là các ca sĩ Anh Khoa, Duy Quang, Duy Cường, các tuyển thủ túc cầu hàng đầu là các anh Tiết Anh, Ngôn, Phụng, Vĩnh...

Người chiến sĩ Chiến Tranh Chính Trị có mặt trên khắp các trận chiến, của mọi quân binh chủng, đơn vị tham mưu, tác chiến, yểm trợ, luôn sát cánh, kề cận đêm ngày với những tay súng khác, trong cuộc chiến bảo vệ Miền Nam Việt Nam, cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Những giòng cuối xin được dành để tưởng nhớ đến anh Dương Hùng Cường, bút hiệu Dê Húc Càn, một chiến sĩ Chiến Tranh Chính Trị, nhập ngũ từ năm 1954, nhà văn Không Quân đã chết thảm trong ngục tù cộng sản, nhà thơ Không Quân Phan Lạc Giang Đông vĩnh viễn ra đi sau khi đã đến định cư tại Seattle và Thiếu Tá (ca sĩ lừng danh) Sĩ Phú, đã qua đời rất sớm, chưa được lục tuần, một đàn anh đã dày công dẫn dắt tôi, khi mới thuyên chuyển từ Phòng Thông Tin và Báo Chí về Phòng Tâm Lý Chiến, thuộc Văn Phòng Tham Mưu Phó Chiến Tranh Chính Trị, Bộ Tư Lệnh Không Quân, năm 1972.

Đào Hiếu Thảo

Monday, June 24, 2013

Nhớ Bạn Thanh

Huỳnh Bá Thanh

Đào Hiếu Thảo

Quý anh, chị khoá 7/68 Không Quân thân mến,

Vô cùng sửng sốt khi nghe bạn Xuân dặn: "Thảo ngồi cho vững nghe, Huỳnh Bá Thanh mất rồi!.."

Đầu ốc quay cuồng, ngồi xuống bậc thềm, thở dài, lẩm nhẩm "Trời ơi, sao vậy?"...

Bạn Thanh là một trong những khoá sinh trẻ nhất khoá 7/68 KQ, được phục vụ ngành Truyền Tin Điện Tử, trước năm 1975 được tuyển về Trung tâm Kỹ thuật Phú Thọ học kỹ sư trong kế hoạch Hậu Chiến.

Thỉnh thoảng anh em Khoá 7/68 KQ được dịp đón tiếp hai bạn Thanh, Hoàng khi về Washington DC dự Lễ hội do Giáo Hội Phật Giáo Hoà Hảo Hải Ngoại tổ chức.

Được biết bạn Thanh nghỉ hưu sớm để lo việc truyền bá giáo lý nhà Phật.

Nhớ lại bao nhiêu kỷ niệm cùng chia sẻ với Thanh (Cún) từ thời học Quang Trung, Thủ Đức, Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang, những lần họp khoá, các sinh hoạt tôn giáo...

Cầu nguyện cho hương linh bạn Huỳnh Bá Thanh ngàn thu an giấc nơi Cõi Vĩnh Hằng, Miền Tiên Cảnh.

Kính thư,

Đào Hiếu Thảo