Nguyễn Mạnh TrinhNói chuyện với anh em 7/68KQ30 September 2019(Trinh đã bằng lòng cho tôi gửi video này đến các bạn)
Anh em thân chúc
|
Monday, September 30, 2019
Nguyễn Mạnh Trinh - Tình Bạn
Monday, June 26, 2017
Gửi Các Bạn Khóa 7/68 KQ
Bọn ta ba trăm thằng tuổi trẻ
Chọn không gian tổ quốc mênh mông
Mắt sáng môi tươi như tranh vẽ
Vào lửa binh không chút nao lòng
Chia sẻ với nhau thời bão gió
Ðời muôn nhánh rẽ ngược xuôi nguồn
Cánh chim phiêu bạt ngàn cổ độ
Tử sinh ai luận chuyện mất còn?
Ngồi uống cùng nhau các hảo hán
Tưởng ngày xưa rượu tiễn lên đường
Sách vở giảng đường thành dĩ vãng
Những chàng trai dệt mộng muôn phương
Bọn ta ba trăm thằng lính sữa
Ngất ngưởng ca bài hát sa trường
Nghe tâm thức rộn ràng vó ngựa
Tráng sĩ hề đâu ngại gió sương
Chuyện đời xưa ăn thề cắt máu
Những anh hùng kết nghĩa đệ huynh
Lịch sử đã ngàn năm in dấu
Cánh đại bàng vút buổi đăng trình
Chuyện ngày nay ba trăm bè bạn
Vang câu thề chốn vũ đình trường
Tay cầm súng đi vào lửa đạn
Chiến mã nào đã sẵn yên cương?
Bọn ta ba trăm thằng lính trận
Chọn không gian tổ quốc hào hùng
Ðất nước thế thời cơn địa chấn
Tuổi thanh xuân nào chịu quay lưng
Tưởng những lúc sao trời dẫn lối
Ðường thênh thang mây gió tầng cao
Tưởng thái dương một vầng chói lọi
Gươm thiêng nào thiên cổ vừa trao?
Hãy nâng ly này các hảo hán
Uống cho say mai sớm lên đường
Chợt có lúc thấy mình lãng mạn
Em quẩn quanh bàng bạc mùi hương…
Nguyễn Mạnh Trinh
Thursday, May 1, 2014
Chuyện Những Người Không Quân Ngày Tan Chiến
Tản Mạn Nguyễn Mạnh Trinh
Nơi ta ở, ngày ấy là.. trại tù. Nơi ta ở, ngày ấy là.. nơi chôn vùi những ước vọng thanh xuân. Nơi ta ở, là những cánh chim bị nhốt trong nan lồng. Nơi ta ở, ngậm ngùi đời bại binh dằn vặt… Một người Không quân, làm thơ, ở Long Khánh, mỗi ngày nhìn ngọn núi Chứa Chan và nghe tiếng còi tàu của chuyến xe lửa chạy qua, lại bồi hồi. Ngày tháng như hun bằng lửa đốt. Tháng ngày. như đếm bằng nỗi niềm. Có một bài thơ, đã được viết lên trong tâm cảm ấy. Và suốt trong những ngày ở trại thù, bài thơ ấy được giấu vào trong tận cùng tâm tư, thỉnh thoảng được đọc cho những người bạn cùng chia sẻ ý nghĩ khi dạt dào cảm khái:
"Nơi ta ở rào kẽm gai buộc trói Họ là những người tù rất trẻ và trong tâm thức dường như vẫn còn dai dẳng một cuộc chiến. Phần đông những người tù cải tạo đều hun đúc trong lòng những nỗi niềm nhưng cố giữ gìn để chờ mong một ngày được trở về nên sự chống đối chỉ là thụ động ngấm ngầm và không thành hành động. Nhưng có một số cá biệt. Họ vẫn nghĩ cuộc chiến vẫn còn và mong ước được một ngày thoát cũi xổ lồng và gặp được “quân bạn” để tiếp tục cuộc chiến đấu. Ôi! quân bạn, cái từ ngữ mà ngày nào ở trên bầu trời đã sát cánh với nhau, thì lúc sa cơ, lại thành chữ thiêng liêng của mộng lại tung hoành như xưa... Họ là những phi công trẻ, của những phi đoàn Thái Dương, Phi Hổ, Thần Ưng, Thiên Lôi, Bắc Đẩu,... hay những sĩ quan không phi hành ngày xưa. Đầu năm 1976, thời tiết hình như lạnh hơn mọi năm. Cái đói đi liền với cái rét. Lúc ấy chúng tôi đang ở Long Khánh, hòm thư 7509, mà chúng tôi đã đùa cợt khi nói tới bẩy năm mà chưa chín được thì làm sao “cải tạo tốt” để trở về lại với gia đình. Có phải đó là cái tên tiền định mà bất cứ người tù nào cũng đều căm ghét? Chiến tranh vẫn còn dấu vết, từ những chiếc xe tăng T-54 bị bắn cháy với hàng chữ “tiểu đoàn 87 BĐQ hạ tăng này“ màu đỏ chói đến những căn nhà trong doanh trại cũ đầy dấu đạn. Đó là với cảnh, còn với người thì rõ nét hơn. Những mắt cú vọ, những lời xỉ mạ của kẻ thắng và ánh mắt căm hờn hay chế diễu quân thù của người bại trận tù binh. Những tháng ngày nối tiếp để thấy ảo vọng hòa giải hòa hợp là không thực. Trong giờ đọc báo buổi tối, trên tờ Nhân Dân thấy tin những quân nhân của chế độ Tưởng Giới Thạch từ năm 1949 bị tù đày tới bây giờ (1976) mới được xét để trả tự do. Và càng ngày, càng thấy được những ngu dốt của kẻ chiến thắng, ăn nói một điệu như vẹt nhưng đời thường thì phét lác ăn nói ngập ngọng, nhiều khi là sĩ quan mà không thông phép toán cộng trừ nhân chia hay những điều khoa học thường thức sơ đẳng nhất. Nhớ lại những ngày ấy, không phải để nhớ đến những người còn sống. Mà, chính là dịp để tưởng niệm những người đã chết. Có rất nhiều anh hùng vô danh của tất cả các quân binh chủng đã ra đi, từ chủ lực quân đến địa phương quân, nghĩa quân. Rất nhiều gương kiêu dũng hào hùng. Riêng tôi, từ những ngày bị tù đày, đã thấy những người đồng đội Không Quân của tôi, kiên cường với lý tưởng của mình và thách đố bạo lực. Những người ấy, thỉnh thoảng còn nhắc lại trong đám bạn bè, nhưng dường như là những chiến sĩ vô danh ít được đời nhắc đến. Thực ra, tù đày là đồng nghĩa với khổ sở với nhân phẩm bị chà đạp và chẳng có ai hãnh diện vì cái thua thiệt của mình. Nhưng với người đã chết, phải có sự công bằng, của nén nhang tưởng nhớ của lòng tri ân vô vàn của những người còn sống sót. Một ngày trong năm 1976, ở trại tù L9-T5, khối chúng tôi bị trực nên được lệnh di chuyển hai conex lên phi trường không biết để làm gì. Lăn từng bước từng bước, ba chục tù một conex xúm nhau đẩy trên mặt đất ghồ ghề. Nửa chừng thì được lệnh lăn trở về vì không cần nữa. Về đến trại thấy ở giữa sân có hai xác người nằm bêu dưới nắng. Thì ra, là hai đồng đội của chúng tôi, vượt ngục ra đến bên ngoài thì bị bắn vì chống cự lại. Tất cả chúng tôi, mắt như sầm xuống với một cảm giác đau đớn và nén lại những xúc cảm vỡ òa. Hai xác người bê bết máu còn mặc bộ đồ trận cũ ngày xưa là hình ảnh bám mãi vào tiềm thức tôi và khi nhớ lại không khỏi trào dâng một sự đau đớn. Hai phi công trẻ, Lê Văn Bé và Nguyễn Văn Lộc của phi đoàn A37 ngày xưa bị phơi xác như một lối dằn mặt thị oai dã man thời trung cổ. Và những người quản giáo đã xỉ mạ người chết để răn đe người sống... Chuyện cũ tưởng đã vùi trong quên lãng thì một bữa ở xứ người tôi tình cờ gặp lại anh Huỳnh Văn Giàu, người bạn tù ngày xưa. Hai đứa không biết nhau cho đến khi tình cờ nói chuyện về trại tù Long Khánh. Giàu chính là người đã trốn thoát khỏi trại tù thành công và sau đó cũng tổ chức vượt biên để thoát được một địa ngục có thật trong nước. Giàu nói những chuyện ấy, nhỏ nhẹ tự nhiên và không có sự “nổ“ hay khoe khoang bản thân mình. Nhiều khi anh có có vẻ xúc động khi nhắc đến những người bạn đã chết. Bé, Lộc, và cả Giàu, cùng nhiều người bạn trẻ khác nung nấu ý định vượt trại với chủ đích đi sang Kam Pu Chia để đến Thái Lan. Dọc đường nếu có ”quân bạn“ của lực lượng kháng chiến sẽ gia nhập. Để sửa soạn họ phải sửa soạn cơm khô và vũ khí. Ở trong tù, cơm đã không đủ no mà phải để dành một nửa phơi khô và giấu diếm ngụy trang để những tên “ăng ten“ hoặc quản giáo khỏi để ý. Còn vũ khí là những trái lựu đạn còn sót lại mà những người tù hay tháo chốt ra để đầy trong lán ngủ mà ít ai để ý. Họ dồn những trái lựu đạn lại gắn chốt vào và cất giấu đi để chờ lên đường. Mỗi người sửa soạn một bao cát may khá kỹ càng để chứa cơm khô, lựu đạn, và một cây dao rựa cầm tay. Thời gian nuôi ý định cũng khá dài và cho đến khi họ cảm thấy sự nguy hiểm là có thể sẽ bị bại lộ. Lúc ấy ở L9T5 có quản giáo Hạ người gốc thiểu số thượng du thường tỏ ra căm thù và tổ chức màng lưới ăng ten trong bếp, trong khối để báo cáo mọi chuyện. Hắn mặt mày luôn khó đăm đăm, cái môi sứt luôn luôn đe dọa “cùm nhốt“ những người tù cải tạo. Có lần hắn đã điểm mặt anh Lê Thụy một cựu nhân viên Việt Nam Thông Tấn Xã: ”Có bửa óc anh ra thì cũng chẳng cải tạo được. Chất phản động đã ngấm vào máu anh rồi!” Nói như thế khác nào tuyên án tử hình, chắc anh Lê Thụy giờ sống ở Quận Cam còn nhớ? Và, ở trong tù, cũng phải nói có nhiều người quá hèn hạ để chỉ điểm báo cáo bạn bè mình. Và quân chủng Không Quân cũng có những người như vậy. Khi được trả tự do, có một tên hồi trước làm giảng viên trường Anh ngữ làm khối trưởng đã bị đánh ngay tại bến xe Phước Bình vì những việc làm dơ bẩn báo cáo chỉ điểm hãm hại bạn bè. Hồi trước, đã có chuyện “tiến sĩ” Nguyễn Văn Hảo gửi thư chui về cho vợ đã viết là “đừng tin những gì mà bọn này nói“. Thế là anh bị biệt giam, và mỗi lần tập họp lại mang ra chì chiết xỉ mạ. Nào học tập mà còn tư tưởng không an tâm, nghi ngờ cách mạng, nào dám dùng chữ “bọn ấy“ để chỉ những người Cách mạng… Thực ra, anh này không phải là phó thủ tướng VNCH Nguyễn Văn Hảo thật mà chỉ trùng tên thôi và chuyện của anh cứ được nhắc lại hoài để bọn quản giáo răn đe hăm dọa. Không biết bây giờ anh lưu lạc nơi đâu?. Còn một chuyện khác là chuyện của nhà văn Dương Hùng Cường. Trong khi “lên lớp“ với bài học được soạn sẵn từ trung ương “truyền thống đoàn kết chiến đấu của dân tộc Việt nam” thì Dương Hùng Cường đã phản bác lại là chỉ có truyền thống chia rẽ chứ chẳng có đoàn kết gì cả, và ông đã mang lịch sử từ thời Trịnh Nguyễn phân tranh để chứng minh. Kết quả là một chuỗi ghép tội, nào phản động, nào bóp méo lịch sử theo quan điểm Mỹ Ngụy,.. toàn những tội có thể đáng đem ra bắn bỏ. Dương Hùng Cường cũng là một nhà văn KQ và là tác giả của Buồn Vui Phi Trường, Vĩnh Biệt Phượng, và là cây bút châm chích nổi tiếng Dê Húc Càn của báo Con Ong thời trước. Về sau, ông bị bắt lại lần thứ hai trong Vụ Án Hồ Con Rùa và chết ở trong xà lim của trại giam Chí Hòa. Huỳnh Văn Giàu đã kể lại những giây phút sửa soạn ra đi nghẹt thở ấy. Thực ra không phải tất cả những người tham dự đếu đồng nhất ý kiến. Có người muốn chờ đợi thêm một thời gian nữa, có người muốn thực hiện ngay vì những nguy hiểm bại lộ chực chờ. Người chủ trương ra đi mạnh mẽ nhất là Lê văn Bé. Anh đang bị bịnh ghẻ vì chứng phù thủng nên cứ phải xin nước cơm để uống thay cho thuốc vitamin. Và cái hình ảnh mà cả anh em trong đội thường thấy là Bé cố gắng tập đi và tập phơi nắng để chữa bệnh ở sân trại. Chính Giàu đã nhiều lần thuyết phục Bé nhưng anh vẫn khăng khăng quyết định hành động. Giàu kể lại là bọn anh đã nghiên cứu khá kỹ những vọng gác và những lối ngõ có thể ra đi an toàn, mang lương khô và lựu đạn dấu ở ngoài và chọn một lối ra vượt hàng rào ở phía suối. Anh kể đã dùng hai cây cọc sắt để vượt rào kẽm gai cũng như dò lần ra đường dây điện dể cắt đi làm cho toàn thể cả khu mất điện làm cho các bóng đèn ở hàng rào không ánh sáng để dễ dàng cho việc vượt thoát. Giàu quyết định đi sau nhưng giúp Bé, Lộc và hai người bạn khác một là Quân Báo, một là Biệt Kích ra đi. Đêm hôm ấy mưa lớn, tối khoảng mười giờ, Giàu ra hàng rào cắt điện để lúc hai giờ đêm cả nhóm ra đi. Với cách dùng cọc sắt, dặt trên hàng rào, đi qua, rồi cứ thế tiếp tục, cả nhóm ra được bên ngoài. Giàu trở về trại. Và hình như họ chia làm hai toán. Lộc và Bé một toán, còn hai người bạn khác một toán đi song song nhau. Và khi Bé và Lộc bị toán dân quân bắt gặp sau khi đã đi được hai ngày. Bé kêu Lộc chạy thoát đi để anh cản đường và tung lựu đạn ra. Lựu đạn nổ và anh bị bắn hàng tràng đạn vào người. Lộc không đành bỏ bạn lại một mình cũng tung lựu đạn chống trả. Và cả hai đã hy sinh. "Không bỏ anh em không bỏ bạn bè", câu châm ngôn của quân chủng thật đúng với trường hợp của Bé và Lộc. Bọn VC đã căm thù bằng cách bêu xác hai anh rồi khi chôn lại chôn sấp nằm úp mặt dưới đất và cũng không cho làm bia mộ để làm dấu cho thân nhân về sau. Ông già Trạch, một người tù cải tạo trong toán đi chôn thấy thế nhảy xuống huyệt để lật ngửa xác Bé lên thì bị một tên vệ binh lên cò súng và chửi thề rồi hỏi “Đ.M. mày muốn xuống nằm chung không thì bảo?” Về sau, những người bạn tù đi qua, lén lút mang lại những hòn đá để làm dấu cho hai ngôi mộ. Không biết thời gian qua, có còn dấu vết gì để thân nhân hai anh cải táng? Huỳnh văn Giàu là người tù hầu như duy nhất của L9T5 vượt trại thành công. Anh là người tạo ra nhiều huyền thoại cho những bạn tù cùng trại. Có người nói anh đã qua tới Thái Lan, có người nói gặp anh ở Sài Gòn... Tôi hỏi và Giàu chỉ cười, không nói. Bản tính khiêm nhường khiến anh không muốn nói về mình nhưng lại rất xúc cảm, rất chân thành khi nói về hai người bạn đã hy sinh. Đã hơn ba chục năm, đáng lẽ con sông Bến Hải chia cách đã phải lấp từ lâu. Một cuộc chiến tàn khốc mà cả dân tộc bị thiệt hại và chỉ tạo lợi nhuận cho những đám kên kên sống trên những xác chết. Có nhiều người kêu gọi hãy quên đi dĩ vãng để xây dựng lại đất nước và hàn gắn lại dân tộc. Điều ấy, bất cứ một người yêu nước nào dù ở bên này hay bên kia đều mơ ước. Nhưng, những người nắm quyền lực trong tay, chỉ là thiểu số ít ỏi của hơn 80 triệu dân, ngoài mặt nói chuyện đoàn kết nhưng bên trong thì vẫn không từ một thủ đoạn chia rẽ nào để cố giữ lại quyền lực thống trị. Cả với người đã chết, như chuyện áp lực với các nước lân bang đập phá không cho dựng tương đài tưởng niệm những người bỏ mình khi vượt biển. Hay để nghĩa trang quân đội nơi chôn cất các tử sĩ của QLVNCH bị bỏ hoang phế, tượng Tiếc Thương bị kéo sập. Như vậy, chuyện cũ đã chưa thể quên lại cộng thêm những chuyện mới xảy ra. Thế thì làm sao tin tưởng được để hòa giải hòa hợp với nhau để hàn gắn lại những đau thương tan nát. Nguyễn Mạnh Trinh |
Tuesday, November 5, 2013
Bonjour Việt Nam – người đi, người ở, người về
Nguyễn Mạnh Trinh
Tùy bút / Tản Văn
Cách đây không lâu, một trang báo đã làm tôi thẫn thờ. Ðọc bài của một tác giả còn sống ở trong nước, hình như là anh Nguyễn Ðạt, viết về những con đường mà có lẽ ngày xưa với tuổi thiếu niên của tôi quen thuộc lắm. Bài có hình của con đường dọc theo hai bờ kinh, một bên là bến Lê Quang Liêm, một bên là bến Mễ Cốc. Nhìn những mái ngói rêu phong, nhìn những bờ tường loang lở, một dĩ vãng ùa về trong tôi. Có chất xúc tác, tiềm thức như òa vỡ những cảm xúc. Con đường này, suốt một năm đệ tam đạp xe theo em, lặng thinh nhưng đôi mắt ngỏ rất nhiều. Chỗ này, nơi dốc cầu cao, ngẩn ngơ nhìn theo tà áo trắng, mà lòng nghe nằng nặng những giấc mơ thời vừa lớn. Ở đó, là nơi tôi viết những câu thơ tình, viết mà không dám gửi... Ở đó, mấy chục năm qua đi, người cũ xa, mất hút. Và, cảnh chắc cũng phong trần lắm. Bao nhiêu là biến cố, bao nhiêu là nước cuốn qua cầu... Tuổi học trò, có những đêm thức khuya học bài, nhưng trí óc vơ vẩn để ở đâu đâu. Sao trước mặt cứ nhạt nhòa tà áo trắng. Con kinh nước đen, những chiếc ghe chài đen đủi cạnh bờ, những dốc cầu cao cổ độ... Chao ơi là vương vấn. Bài thơ viết ra, đầy ngây ngất và cũng rất ngây thơ:
Tôi, như người thích đi trở lại những quãng đời mình, đã qua. Trong tiềm thức, kỷ niệm lúc nào cũng như biển, đầy ăm ắp và bất cứ lúc nào cũng muốn tràn ra. Nhiều người trở lại Việt nam nói bây giờ cảnh và người thay đổi nhiều lắm. Nếu muốn đi tìm kiếm lại cảnh cũ thì khó lắm, hầu như không thể nào. Thành ra, có người trở về nhiều lần nhưng những hình ảnh hiện tại chỉ nhắc nhở đến quá khứ đã xa, kỷ niệm đã mất. Mấy ngày nay, tình cờ, tôi được nghe một ca khúc, và, cái cảm giác như sóng vỡ bờ ấy đã làm tôi thẫn thờ trong giấc mộng du nào. Như một “người đi trên mây”, đọc một bái báo có hình ảnh của con đường cũ, đã rung động. Thế mà, nghe bản nhạc của một người ngoại quốc viết về quê hương mình, do một thiếu nữ Việt Nam nhưng phát âm Pháp ngữ rất chuẩn, lại bồi hồi và xao xuyến gấp bội. Những điệp khúc, như lời thiết tha. Những ngôn ngữ như lời thầm thỉ. Dù rằng những hình ảnh như chiếc trực thăng cuồng nộ trên bầu trời làm tôi thấy có một điều gì lấn cấn trong tâm. Cái hình ảnh tuyên truyền của những người phản chiến thiên Cộng ấy đã thành một hình ảnh tiêu biểu cho chiến tranh chăng? Sao không có những hình ảnh khác như hầm chôn người ở Huế, hay đại lộ kinh hoàng ở Quảng Trị…? Nhưng cảm giác ấy thoáng mau bởi vì người viết lời là một người ngoại quốc, không có tâm thức và trái tim Việt Nam. Lời của Bonjour Việt Nam có nét bình dị nhưng nói lên được cái tâm cảm nhớ nhung quê hương của những người xa xứ. Có thể nói tuy Marc Lavoine là người ngoài nhưng như mang tâm cảm của người ở bên trong đã sống cùng, đã thở với và chung nỗi niềm.. Tôi chợt nhớ đến trường hợp của Anthony Grey viết “Saigon” mang thật nhiều tính chất dân tộc Việt Nam đến nỗi một tác giả là Nguyễn Ước đã dịch và viết thành “Trăng Huyết” như một phiên bản khác dày cả ngàn trang, vừa có tính chuyển ngữ mà còn có chất phóng tác. Và, Nguyễn Ước đã tỏ lòng hâm mộ hết sức với nguyên bản mà ông đã đọc, thích thú say mê. Trường hợp Marc Lavoine và “Bonjour Việt Nam” cũng là một tiêu biểu. Dù bản nhạc chưa được hoàn chỉnh lắm theo như tác giả, nhưng khi được Phạm Quỳnh Anh hát thì được ngưỡng mộ rất nhiều. Ít có bản nhạc gây ra tâm cảm phấn khích cho người nghe như thế. Vào website google.com, search ở Phạm Quỳnh Anh, tôi download và in ra tới gần cả trăm trang những nhận xét của mọi người bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Tất cả như cùng chia sẻ với người viết nhạc và người trình bày nhạc một tâm cảm lạ lùng, của những nỗi niềm mà khi nghĩ lại, giống cá nhân tôi. Nghĩa là, của một đại dương bề mặt thì yên tĩnh nhưng ở bề sâu dưới đáy thì lại cuồn cuộn vỡ bờ. Không hẳn là tình hoài hương, cũng không hoàn toàn là những lời than trách, nhưng trong âm điệu, có một điều gì trong veo, của tình tự dân tộc sâu lắng xuống, thành cung bậc làm cho thăng hoa những suy tư, những liên cảm. Ðiệp khúc “Un jour, j’irai là bas” (Một ngày nào, tôi sẽ trở về nơi chốn đó) nhắc đi nhắc lại thật đã trong không gian chùng xuống những giây thần kinh rung động. Nghe đi nghe lại, vẫn chưa chán, mà đôi khi, còn làm kéo dài thêm cái giây phút của một người còn nuối tiếc một điều gì linh thiêng lắm mà nhất thời chưa định hình được. Lời nhạc lôi vào một cảnh thổ nào, tuy quen thuộc nhưng vẫn thấy hấp dẫn bởi những bất ngờ sẽ gặp, sẽ đến. Lãnh thổ của những người thích chơi vơi, phiêu lưu trong cái bềnh bồng của quá khứ lung linh trong tâm tư. Nghe Phạm Quỳnh Anh hát, tưởng như một người của một xứ nói tiếng Pháp hát, nếu không có chữ Việt Nam với phát âm nghe rõ dấu nặng của chữ Việt. Nhưng lại có một cảm giác xen vào, nếu nghe Phạm Quỳnh Anh, một cô bé sống và lớn lên ở xứ người mà hát được bằng ngôn ngữ Việt Nam thì hay biết bao! Dù rằng, cô bé ấy đã đi song hàng giữa hai nền văn hóa, giữa hai đời sống và hai ý niệm…. Marc Lavoine đã gửi gấm những điều gì trong nốt nhạc và ca từ của “Bonjour Viêt Nam”? Thực ra, từ hình ảnh, đến ngôn ngữ đều bình dị. Nguyên bản là:
Racontes moi ce mot étrange et difficile à prononcer Bản chuyển ngữ được phỏng dịch như sau:
Vẫy chào Việt Nam Bản nhạc như thôi thúc một buổi trở về. Có một lời hứa hẹn. Tôi sẽ về. Sẽ về để thấy yêu vô vàn quê hương. Ðể thay người cha thắp nén nhang thơm lên bàn thờ Phật để nguyện cầu những điều tốt đẹp nhất. Ðể thay lời người mẹ, ân cần nhắc nhở tới những thiếu phụ gập mình dườiđồng sâu, khổ cực một đời. Câu văn trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư vẫn còn âm vang: “không có nơi nào đẹp bằng quê hương.” Dù rằng, quê hương ấy tả tơi vì bom đạn, vì khói lửa làm đen tối cả một khoảng trời. Chuyện chiến tranh bây giờ đã thành quá khứ, nhưng cái bóng đen ấy vẫn cón ám ảnh nhiều người. Vẫn còn những bi thảm tiếp tục. Vẫn còn những chia phân trong hồn người… Riêng với tôi, cảm xúc đã tạo cho mình những câu tự vấn. Người đi? Người ở? Người về? Tôi có phải là người thật lòng yêu quê hương xứ sở không? hay chỉ là trong đầu môi chót lưỡi? Ai mà chẳng muốn về thăm quê nhà. Ai mà chẳng yêu đất nước và mong mỏi quốc gia hùng cường tân tiến? Thế mà, sao bây giờ, tôi chỉ tự hứa với mình. Sẽ có một ngày trở về. Còn bây giờ, thì chưa. Gần đây tôi có đọc một lá thư của một người lính bị tàn phế gửi cho một người bạn từ Việt Nam. Bức thư có nhiều đoạn làm tôi suy nghĩ: “... Các anh ạ! Bây giờ thì buồn quá! Các anh – những sĩ quan QLVNCH, những người anh của chúng tôi, những Ðại Bàng, những Bắc Ðẩu, Hắc Báo của ngày nào một thời tung hoành ngang dọc khắp các chiến trường.. các anh đã có một thời quang vinh và một thời nhục nhã, giờ đây sau 30 năm vẫn lặng lẽ, các anh cũng nhòa đi hình ảnh của ngày xưa? Các anh đã quên rồi sao? Quên rồi những chiến sĩ thuộc quyền của các anh đã nằm xuống vĩnh viễn trên đất mẹ thiêng liêng quên những đồng đội còn sống sót trong một tấm thân tật nguyền đau khổ, sống lây lất ở đầu đường xó chợ. Xin cảm ơn các anh về những đồng đô la mà các anh gửi về cho chúng tôi trong chương trình giúp đỡ thương phế binh QLVNCH. Những đồng tiền đó dù có giúp cho chúng tôi trong một thời gian ngắn, dù có an ủi cho những đớn đau vật chất được đôi phần nhưng cũng không làm sao giúp chúng tôi quên nỗi nhục nhã mất nước! Chúng tôi cần ở các anh những chuyện khác, các anh có thấu hiểu cho chúng tôi hay không? Tôi đã hiểu vì sao thằng khuân vác ở xóm trên, thằng vá xe đạp ở đầu đường, thằng chống nạng đi bán vé số ở cạnh nhà lại ghét cay ghét đắng đám Việt kiều. Họ là những người lính năm xưa, họ đã từng tuân lệnh những Ðại Bàng, Thần Hổ xông pha nơi trận mạc. Họ đã từng chắt chiu từng đồng bạc nghĩa tình chung thủy gửi vào tận chốn tù đày thăm các anh. Họ đã từng uống với các anh chung rượu ân tình ngày đưa các anh lên phi cơ về vùng đất mới. Họ từng nuôi nấng một hoài vọng, một kỳ vọng ngày về vinh quang của QLVNCH. Nhưng chính các anh đã làm họ oán ghét đến độ khinh bỉ khi các anh áo gấm về làng, chễnh chệ ngồi giửa nhà hàng khách sạn 5 sao tung tiền ra để tỏ rõ một Việt Kiều yêu nước. Các anh có biết không? Từ trong sâu thẳm của cuộc đời, những người lính VNCH đang lê lết ở ngoài cửa nhà hàng mà các anh đang ăn uống vui chơi, đang nhìn các anh với ánh mắt hận thù. Hận thù lớn nhất của người lính là sự bội bạc, là sự phản bội! Không biết khi tôi kết tội các anh là phản bội có quá đáng hay không, nhưng các anh hãy tự suy nghĩ một chút sẽ thấy rõ hơn chúng tôi. Tôi không tin là tất cả các anh đã biến thái thành những tên Việt gian nhưng sự trở về như các anh trong hiện tại là đồng nghĩa với sự phản bội. Các Anh đã phản bội lại Tổ Quốc và rõ ràng nhất các anh đã phản bội lại chúng tôi...” Ðọc lá thư ấy, lòng tôi như chùng xuống. Mỗi một người đều có hoàn cảnh cũng như cách chọn lựa riêng nhưng tôi không ngờ rằng trong sâu thẳm của những người lính cũ còn có những nỗi niềm như thế. Sự phân cách quá sâu đậm, những con sông chia cách vẫn chưa thể lấp bằng được. Ngẫm suy lại, từ một khía cạnh nhìn ngắm khác nhau, đã có những khác biệt cho từng hành động... Nghe nhạc Marc Lavoine với tình tự quê hương Việt Nam qua tiếng hát Phạm Quỳnh Anh, đã là những giây phút hạnh phúc tuyệt hảo hiếm có trong đời. Tôi như đã trở về quê hương tôi bằng tâm tưởng. Tôi ngỡ mình như một người trẻ tuổi trở về, thay lời cha lời mẹ cảm tạ đất nước. Tôi ngỡ mình đang trong hành trình về nguồn, dù có thể rằng mãi mãi tôi sẽ chỉ là người luôn ở lề đường, cả nơi mình lưu lạc xứ người và nơi lạc lõng xứ mình. Tôi có thể quên đi một thời chiến tranh, của lúc mà anh em một nhà hằm hè chong mũi súng nghinh nhau bởi biết rằng tất cả chỉ là nạn nhân của một cuộc chiến ủy nhiệm. Cái hình ảnh những chiếc trực thăng cuồng nộ bầu trời của nhạc Bonjour Việt Nam ấy hình như chỉ tượng trưng cho một phía. Còn nhiều hình ảnh khác, tượng trưng của bên kia, của cuộc chiến nhân dân tàn bạo, tuy chưa nhắc đến nhưng đã sẵn từ liên tưởng. Nghe đi nghe lại bản nhạc thấy thấm thía, cả nỗi buồn lẫn nỗi đau, cả hạnh phúc và thất vọng. Ðọc lá thư, nghe bản nhạc, những suy tư xen kẽ nhau. Quê hương đẹp lắm, hãy về, hỡi người đã ra đi, lời nhạc thủ thỉ. Nhưng, người về, trở lại quê xưa, đừng làm người phản bội, đừng đóng vai tuồng áo gấm về làng, đừng cợt đùa trên nỗi đau người khác, bức thư nhắc nhủ. Người đi, người ở, người về? Thôi thì, cứ hãy bắt đầu một giấc mơ đẹp của người đi tìm lại hình bóng quê hương.
Tôi bắt đầu nghe lại. Nhạc Marc Lavoine, giọng hát Phạm Quỳnh Anh. Bonjour Việt nam: ”Un jour j’irai là bas. Un jour dire bonjour à mon âme. Un jour j’irai là bas. Pour te dire bonjour Việt nam. Te dire bonjour Việt Nam...” Nguyễn Mạnh Trinh
|
Saturday, November 2, 2013
Cuối Năm, Một Đời, Một Người
Nguyễn Mạnh Trinh
Ngày cuối năm, đọc lại những bài thơ trong đời. Hình như, có bước chân trở về quá khứ. Ở đó, thấy lại mình ngày nào. Từ một cậu bé học trò nhiều mơ mông bắt đầu làm quen với chữ nghĩa đến một người đã qua tuổi sáu mươi và phần nào hiểu được những ngọt bùi chua chát trong đời. Ở một chỗ nào đó, thơ như cánh tay lôi kéo về. Thơ như của một mình, trầm trầm trong óc nhớ. Có một người đã viết :
Cuối năm ngồi uống từng sợi gió
Giục giã đêm còi tàu tiếng thét
Cuối năm ngồi một mình đối bóng
Nắng lam biếc rạng ngoài khung cửa Những câu thơ nghe như có chút gì nỗi niềm ẩn khuất. Ở đời sống này, dòng đời cứ qua đi vội vã. Ngày tiếp ngày, tháng tới tháng, năm tròn năm, những góc cạnh như tròn đi trong mòn mỏi. Thuở nhỏ, đọc vài trang sách, có ai mà không mơ mộng, có ai mà không nghĩ đến mộng vá trời để rồi cũng chỉ ở đầu môi... Rồi những bài thơ cuối năm, những câu thơ như rền rĩ trong đầu. Có một chút hững hờ của một nỗi bâng khuâng. Thơ như nỗi niềm mở ra những xúc cảm của một người hay vơ vẩn với những chuyện cuối trời góc biển:
Cuối năm, ừ một mình độc ẩm
Ðêm trừ tịch vắt tay lên trán
Chữ và nghĩa sao còn u uẩn
Câu thơ người xưa còn trên đá Mỗi năm, sau lễ Giáng sinh và đầu năm dương lịch, thời tiết lành lạnh như nhắc nhở trong tâm một nỗi niềm nào. Ngày tết cổ truyền tới, lại thêm một tuổi, để thấy cuộc sống qua cho một tuổi già sắp tới. Có những bài thơ ấp ủ trong đầu, có hơi ấm của ngày ấu thơ quây quần trong ván tam cúc bên cạnh bếp lửa hồng của nồi nấu bánh chưng thuở nào. Có những bữa cúng tất niên, cả gia đình xum họp nhưng cũng có lúc bơ vơ một mình đón giao thừa trong nỗi buồn da diết.
Ðời sống thăng trầm trong một đất nước chiến tranh in hằn trong tâm thức. Ði học, đi lính, đi tù, đi vượt biên, bao nhiêu chữ đi là bấy nhiêu trùng trùng kỷ niệm. Ở Sài Gòn, ở Pleiku, ở Phước Long hay ở Orange County, cuộc đời cứ trôi đi, có lúc là những cơn sóng ngả nghiêng nhưng cũng có lúc là con nước xuôi dòng thầm thỉ. Nếu viết được những trang nhật ký, giữa một buổi chiều cuối năm hiu hắt quê người, thì có lẽ tấm lòng sẽ nhẹ nhàng hơn vì những gánh nặng miệt mài từ dĩ vãng... Thời gian đi qua thật nhanh. Thấm thoát, một đời người, nối tiếp nhau, năm tiếp năm, tháng tiếp tháng. Không ngờ, tôi đã ở đây hơn ba mươi năm, và trải qua hơn ba mươi cái tết.
Làm sao quên được cái tết đầu tiên ở xứ người, đi chùa đêm giao thừa để nhớ lại cái tết vừa qua ở Sài gòn, đang lang thang trên một cửa sông ở Vĩnh Châu đúng đêm giao thừa để lên ghe nhỏ ra ghe lớn cho một chuyến vượt biển bất thành. Cái dư vị của đời sống Việt Nam còn đọng lại trong cảm giác để thấy cuộc đời mình đi qua một thời kỳ khác và sẽ phải phấn đấu hơn nữa để hòa nhập vào cuộc sống mới ở đây. Lúc ấy, vừa hơn ba mươi, mà sao nghe mình già cỗi lạ. Nhưng, tất cả vẫn là những hoài vọng và tin tưởng rằng cái giá của nhũng ngày tháng dồn tâm lực cho một chuyến đi không uổng phí. Sẽ đi vào cuộc với bàn tay trắng với quyết tâm xây dựng một cuộc sống thoải mái tự do.. Sống ở nơi có đông người Việt nên những cái Tết đầy đủ hương vị quê hương. Bánh trái kẹo mứt ê hề, ở đây, cả người giàu lẫn người nghèo đều thừa sức bày biện vật thực cho những ngày xuân sung túc. Về vật chất thì như vậy, nhưng sao trong lòng, hình như mọi người thấy thiếu thiếu một điều gì. Không biết, có phải là niềm giao cảm từ đất trời, khi chúng ta phải rời bỏ quê hương.
Ði lễ chùa xứ người, sao vẫn nhớ buổi lễ chùa Vĩnh Nghiêm, Xá Lợi. Ðêm giao thừa làm sao quên đi lễ Lăng Ông, dập dìu nam thanh nữ tú. Ghé chợ hoa Bolsa, lại nhớ đến rừng hoa đường Nguyễn Huệ ngày nào với hương vị trái quất vặt trộm còn thơm mùi tinh nghịch thuở thanh xuân. Làm sao quên, kỷ niệm cũ. Nhớ nhung mãi, những bóng dáng xưa. Thời tiết lạnh lạnh buổi cuối đông lại càng làm tăng thêm niềm hoài vọng. Hồ mã tê bắc phong. Ở đây, không phải gió bấc mà sao lòng trống trải. Ngày đầu năm, là dịp nhìn lại những cái tết trong đời…
Phần đông những ngày mồng một tết ở xứ người, buồi sáng mù sương đi làm trên xa lộ,mọi ngày như mọi ngày, tưởng nhớ đến cái tết quê nhà. Một thời gian đã qua, biết bao nhiêu là kỷ niệm… Năm nay, tết nguyên đán vào cuối tuần nên ngày tết cũng còn chút ý vị. Nhưng, cái hững hờ làm sao ấy cứ lẩn quẩn trong tin trong óc. Cứ mãi nghĩ về ngày xưa, những ngày ở quê nhà… Khi đi lính, mấy năm ở Pleiku là mấy cái tết xa nhà. Chiều ba mươi, lái xe đi quanh mấy con phố vắng người vì mọi gia đình đều lo cúng kiếng buổi giao thừa, thấy tự nhiên trong lòng một chút gì trống vắng. Nhìn vào những bàn thờ hương khói nghi ngút ở các nhà ngoài phố, thấy nhớ nhà, nhớ gia đình tha thiết. Những bài hát đón xuân, lại càng làm sâu đậm thêm nỗi buồn. Em, bây giờ ở xa, có còn nghĩ ngợi nhớ nhung gì anh, bây giờ?..
Có năm biệt phái Quảng Ðức, có năm biệt phái Ban Mê Thuột, ở đâu thì cũng là tết xa nhà. Cả biệt đội xúm nhau nhậu nhẹt say khướt để qua những ngày đầu năm. Nhiều khi đi biệt phái còn vui hơn là ở đơn vị. Dẫu sao, cũng có nhiều người chia sẻ chung cái nỗi cô đơn của một mùa xuân xa xứ. Có một người lính trẻ làm thơ. Thơ của đêm ba mươi tết buồn ở Pleiku năm 1972. Những câu thơ đã cũ hơn ba chục năm :
Cuối năm thắp ngọn hỏa châu Sau năm 1975, là một cuộc đổi đời. Nước mất, Cộng quân vào Sài gòn, chúng tôi trở thành bại quân. Nhà tan, cả gia đình tôi di tản. Mình tôi kẹt lại, để vào tù với từ ngữ khá hiền hòa “đi học tập cải tạo“. Nhưng mọi người đều ngầm hiểu, chẳng có học tập gì cả, mà chỉ là một biện pháp trả thù của những người chiến thắng. Tù còn có án, còn có thời gian ấn định để trở về. Còn cải tạo thì, một cách rất co dãn, hiểu sao thì hiểu, tốt thì được về. Mà tốt được định nghĩa ra sao, thì, chưa có ai có quyền lực để nói ra cả… Năm 1978, đã đến thời hạn ba năm. Tưởng là sẽ được trở về. Ngờ đâu hy vọng ấy vỡ tan như bọt xà bông.Tết năm ấy, là một cái tết đáng nhớ của đời cải tạo… Trại tôi, một số khá lớn những người tù đã được về. Số còn lại ở trong những lán trại hồi trước đông đảo nay khá trống trải. Giai đoạn này sửa soạn chuyển giao từ bộ đội sang công an nên những công việc lao động cũng chiếu lệ. Nhưng, tinh thần những người tù thì vô cùng bi quan. Cái tương lai tù mút mùa lệ thủy dường như ám ảnh mọi người. Những người bạn tù, mới ngày nào còn nằm sắp lớp bên cạnh nhau, bây giờ, sạp nằm rộng rãi. Những người được về là những kẻ may mắn còn những người ở lại, chờ đợi một ngày về trong cái lo lắng của những án tù không thời hạn cho mình… Cộng Sản là bậc thầy của nghề coi tù. Mềm nắn, dắn buông, lúc cương lúc nhu, khi thì hăm dọa, khi thì vuốt ve, người tù hoàn toàn bị khống chế và mọi sức phản kháng đều bị chế ngự một cách có kỹ thuật. Nhiều khi những tin đồn xuất phát từ quản giáo có lúc như những biện pháp răn đe,có lúc như những xoa dịu những căng thẳng. Và, biện pháp chuyển trại thường xuyên, để mọi người tù khó cấu kết với nhau. Thời gian nhẹ nhàng xoa dịu như vậy chỉ thật ngắn, rồi đâu lại vào đó. Lại lao động cực nhọc, lại kỷ luật sắt, lại biệt giam... Thời gian ấy là cuối năm 1978, khoảng từ ngày giáng sinh đến tết nguyên đán ở trại Phước Long, tỉnh Sông Bé. Những “ăng–ten”, thấy hãm hại báo cáo anh em cũng không được về sớm hơn họ nên cũng ngại ngần trong công tác chó săn và hoạt động ít đi thấy rõ. Anh em cải tạo dễ thở hơn. Ban ngày thì lao động lè phè, quản giáo và vệ binh còn phải sửa soạn để ra biên giới Việt Miên đang có lộn xộn. Buổi tối, tụ họp nhau lại hát nhạc vàng, thậm chí có khi còn pha vào nhạc chính huấn hồi trước, mà chẳng thấy động tịnh gì. Lúc trước, như thế là có chuyện lớn ngay…
Ðã bao nhiêu năm qua, tôi vẫn còn nhớ đêm giao thừa năm 1978 ở Phước Long. Một đêm mà những người tù cảm thấy gần gũi với nhau hơn và chia sẻ với nhau những khốn khó sẽ tới. Cùng linh cảm với nhau rằng ngày về vô định và khi công an thay bộ đội làm quản giáo thì chắc chắn cuộc sống tù đầy sẽ khắc nghiệt khó khăn hơn. Sau bữa cơm chiều cuối năm, cũng có chút thịt, có chút thức ăn, có cơm trắng,… nhưng sao ai cũng dàu dàu nét mặt. Trời núi rừng tối sớm nên cái lạnh lẽo càng tăng thêm độ buốt giá của nỗi buồn bã. Giờ này, ở nhà, chắc có nhiều người vợ ngóng chồng, con mong cha. Bây giờ ở đây, mịt mù tương lai, ai mà chẳng cám cảnh phân vân. Ngày tết là ngày của xum họp. Thân tội tù, biết lúc nào trở về gặp được vợ con, gia đình,... Nhưng có một số bạn trẻ, phần đông xuất thân từ trường Võ Bị Ðà Lạt, thì lại không để nỗi buồn tràn ngập. Họ hô hào góp thức ăn thức uống để tổ chức một đêm giao thừa chung cho mọi người. Và hình như mọi người trong đội đều hưởng ứng. Một bàn thờ được bầy ra, cũng có đèn nến, bánh mứt. Dù đơn sơ, nhưng ấm cúng. Dẫu sao, cũng có những người bên cạnh nhau để không có những giọt lệ gạt thầm, không có những tiếng thở dài khoắc khoải trong đêm trừ tịch. Những tiếng hát, bắt đầu là những bản nhạc ngoại quốc mà anh em ngụy trang gọi là nhạc Liên Xô để che mắt quản giáo. Nhưng về sau, dần dần tâm tình được mở ngỏ và mọi người một lúc quên đi cái nghiệt ngã của tù đầy để tiếng nhạc chuyên chở được ý tình của những người luôn hy vọng. Những bài tình ca những nốt nhạc vui là khúc dạo đầu. Có lúc nhạc buồn bã, đầy nhớ thương. Có lúc, nhạc là lời tha thiết của trái tim trao gửi. Có anh bạn đã hát bằng cả tấm lòng bài “Xuân này con không về” của Trịnh Lâm Ngân. Sao lại có ngôn ngữ thích hợp đến thế. Dù tình cảnh hồi trước là của anh lính chiến phải xa nhà vì nhiệm vụ, nhưng lúc này, tưởng như trận chiến vẫn còn. Những người tù, hát với nhau cảm khái:
“Nếu con không về chắc mẹ buồn lắm mái tranh nghèo không người sửa sang khu vườn tu hoa vàng mừng xuân. Bầy trẻ thơ ngây chờ mong anh trai sẽ đem về cho tà áo mới ba ngày xuân đi khoe xóm giềng…” Có một bản nhạc “Nước mắt cho Saigòn” thực ra là của Nguyễn Ðình Toàn nhưng lúc ấy chúng tôi đồn là của nhạc sĩ Phạm Duy từ ngoại quốc gửi nỗi niềm về. Những thân yêu trao gửi cho một thành phố tràn đầy kỷ niệm. Tin đồn tuy thất thiệt nhưng lúc đó cũng hâm nóng cho côi những nỗi niềm. Và, cũng thật là say sưa, những nốt nhạc và ngôn ngữ ấy: “Saigòn ơi! Ðến những ngày ôi hè phố xôn xao. Trong niềm vui tiếng hỏi câu chào sáng đời tươi thắm vạn sắc màu. Còn gì đâu! Ai đã xa nhớ hàng me già. Thu công viên hoa vàng tượng đá. Saigòn ơi. Ðâu những ngày mưa buồn khoác áo đi. Tay cầm tay nói nhỏ những gì. Những quầy hoa quán nhạc đêm về còn rộn ràng giọng hát Khánh Ly...”
Bây giờ nghe lại bài hát này, cũng như nghe lại nhạc Trịnh Lâm Ngân “Xuân này con không về,” đã mấy chục năm qua mà sao vẫn nghe trong lòng gợn lên những dây rưng rưng cảm xúc. Tôi nhớ chúng tôi có hát những bài nhạc Chính Huấn thuở nào trong đêm giao thừa ấy. Nào “Cờ bay cờ bay trên thành phố thân yêu vừa chiếm lại đêm qua bằng máu..” hay “Trên đầu súng quê hương tổ quốc đã vươn mình. Trên lưỡi lê căm hờn hờn căm như triều sóng. Ôi bao la thăm thẳm bát ngát cánh đồng vàng với lũy tre xanh và tiếng ê a đầu làng là kinh nguyện cầu cho người nằm xuống...” hoặc “Giặc từ Bắc vô đây bàn tay vấy máu anh em, giặc từ Bắc vô đây bàn tay vấy máu đồng bào...” Những câu hát mới đầu chỉ là lời thầm sau có lúc cất lên không ngờ. Với những nhạc cụ thô sơ tự chế, mà căn bản là cây guitare mà cần đàn, thùng đàn, phím đàn, đều là những vật dụng vứt đi được săn nhặt để tạo thành. Cả đến giây đàn cũng là những sợi kim loại được tước ra từng những sợi giây điện hoặc giây cable nhưng lại chính xác âm độ đến mức không thể mơ ước gì hơn. Những chàng nhạc sĩ ấy, trong cái đam mê âm nhạc và cũng là một cách thế tâm sự với mình, với bạn bè cuối năm trong những nốt nhạc đã làm quên đi đời tù tội u ám không có ngày mai. Nhạc buồn của đời sống hiện hữu nhưng hình như có một điều gì phả vào lời thơ câu nhạc. Có một chút phẫn hận thương thân nhưng cũng có một chút ngang tàng không khuất phục. Chúng tôi mới đầu một người hát, sau mọi người như truyền nhau cái say sưa thành những bản hợp ca hào hùng mà có lúc chúng tôi tưởng như ngày nào, thuở còn hàng ngũ. Có một người làm thơ đã viết về đêm giao thừa ấy. Một bài thơ mà tác giả của nó trong một phút cảm hứng đã viết ra rồi chỉ phổ biến cho một vài người bạn rồi cố gắng chôn chặt vào trí nhớ.
Ðêm ba mươi sao chập chùng tiếng hát
Ðêm ba mươi hát bài ca chính huấn
Núi rừng khuya có nghe lời thiên cổ Ðã gần ba chục năm qua, trong tâm tư của tôi vẫn luôn luôn nhớ đến ngày cuối năm ấy. Dù đời sống có lúc buồn, lúc vui, lúc thăng trầm, lúc hào hứng, nhưng những giây phút ấy không thể nào quên trong đời người. Tôi biết, những bạn tù của tôi ở những trại giam ngoài Bắc còn bị khổ sở đầy ải gấp trăm lần hơn cũng như những thời hạn giam giữ thăm thẳm dài hơn. Nhưng với tôi, buổi tất niên cùng những bài hát cũng đã là một hằn vết không phai trong đời sống tôi. Nguyễn Mạnh Trinh |
Friday, October 25, 2013
Dặn Anh Khói Sóng
Vào những năm 1966, 1967, tôi đã được hân hạnh gặp anh Phạm Văn Phú ở Đài Phát Thanh Sài Gòn. Những năm ấy anh Phú thường theo người anh ruột, Phạm Văn Hiến, đến ngâm thơ trong ban Tao Đàn do thi sĩ Đinh Hùng phụ trách. Lần nào đến đài anh cũng quần xanh áo trắng, đi ngâm thơ nhưng trên tay lúc nào cũng ôm cặp sách, dáng dấp rất thư sinh. Giọng ngâm của anh truyền cảm nên thi sĩ Đinh Hùng đã để ý đến anh một cách đặc biệt. Chúng tôi quen biết và là bạn với nhau từ đấy. (HKN) Hôm nay mời các bạn nghe giọng ngâm ngọt ngào của anh qua bài Dặn Anh Khói Sóng của anh Nguyễn Mạnh Trinh. Gõ con chuột vào video dưới để nghe: |
Dặn Anh Khói Sóng
Thơ Nguyễn Mạnh Trinh
Giọng ngâm: Phạm Văn Phú
![]() |
Anh, rẽ thẳng ngôi em làn tóc xõa Không quanh co khuất khúc mối tình em Dù biển gió sẽ rối tung trăm ngả Anh vuốt ve cho giấc ngủ em mềm Anh, ru em lời ca dao mật ngọt Cho em quên cơn khát biển nhọc nhằn Nhìn thẳng mắt em chân trời hy vọng Cho mênh mông anh trán phẳng vết nhăn Anh, vuốt khẽ cho em tà áo mộng Khép sau lưng tia nắng đẹp phố phường Ô kìa anh tung tăng đôi bướm đẹp Ðang nô đùa bãi cỏ biếc quê hương Anh đọc nhỏ thơ anh lời dưới mộ Có phải em đang dần rã xác thân Có phải đang bập bềnh muôn khói sóng Ðường hải hành trăm lối dạt phân vân Anh, hãy hôn em bờ môi vời vợi Ấm vòng tay tà áo đẹp em đan Ðợt phiêu bạt gió bên trời tiếng gọi Ơi nụ cười sao đau xót vô vàn Anh, em đã vùi trong lòng biển thẳm Vèo cánh chim qua nhịp sóng đoạn trường Rêu xanh sẽ muôn đời xây nấm mộ Trái tim không ngưng nhịp đập quê hương. Nguyễn Mạnh Trinh |
Saturday, October 19, 2013
Mộng Du
Ta kẻ mộng du đường mãi bước Chiều như cơn xế nắng qua mau Ngã tư ngẩn đứng nhìn xuôi ngược Trời đất dường như cũng biết sầu Tự hỏi rất thầm ngày quá vãng Nụ hồng còn nở góc vườn xưa Thế thân, thân thế, đành quên lãng Xứ người hiu hắt cơn mưa Có biết dòng sông nào một hướng Về ta, biển lớn cũng khơi nguồn Ý tưởng dường như không hình tượng Còn mất, ai hay chuyện mất còn? Ta kẻ mộng du ngồi đối bóng Yêu người tim đập cứ bâng khuâng Khoang tâm nhồi nhét đành khuôn trống Năm mươi tóc bạc sợi tần ngần Buổi sáng, buổi trưa, như mặt lạ Đóng vai kịch cũ giả hình nhân Con chốt thoảng qua nhiều vội vã Bâng quơ chiếc lá rụng ngoài sân Sao cứ ấp ôm hoài kỷ niệm Hỡi ta, bên lở với bên bồi Đời cứ chập chờn câu chuyện phiếm Nửa khuya trăng giọt vẫn còn soi Ta thiếu nợ không đành tính sổ Nên cố quên những mục lỗ lời Soi gương mặt để nhìn cho rõ Vết sẹo đời còn vệt son môi Mờ sáng lái xe vào đất trích Nhìn hai bên sương trắng mênh mông Núi ơi sao cứ hoài u tịch Đá xẫm mầu rêu để lạnh lùng Đầu dốc tưởng như ngàn khói tỏa Phận thân nào lưu lạc hôm nay Năm tháng qua mùa xuân mùa hạ Mốc đời nguyên vẹn dấu chân bày Ta kẻ mộng du vào quên lãng Vào vườn người hái đóa từ tâm Hạnh phúc đành, một cơn gió thoảng Dập vùi thân thể mấy vòng lăn Có lúc biết đất trời vô tận Áo cơm rồi cũng lúc thờ ơ Quá vãng trôi qua thời lận đận Cánh bèo trôi khuất bến tình cờ Và ta có riêng ta kiếp khác Và, giấc mơ, cũng giống giấc mơ Đếm mái tóc khá nhiều sợi bạc Nên chiều nay, tưởng ở hư vô Ta thân thế thế thân sao nhẹ Núi bên kia còn xẫm dáng trời Ta bên này một con chim sẻ Ríu rít buồn một nốt nhạc vui. Nguyễn Mạnh Trinh |
thơ Nguyễn Mạnh Trinh![]() |
Tuesday, October 8, 2013
Ride The Thunder
“Ride The Thunder”Chân dung những anh hùng trong cuộc chiến Việt NamTạp Ghi Văn Nghệ Nguyễn Mạnh TrinhRide the Thunder. Richard Botkin. “Cưỡi trên đầu sấm sét” của một tác giả, cựu thiếu tá Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đã bỏ ra hơn 5 năm trời để viết ra một tác phẩm hoàn toàn dưạ trên sự thực để mục đích vinh danh những anh hùng của cuộc chiến Viêt Nam. Cuốn sách đã xuất bản năm 2009 và mãi tới nay vẫn là cuốn sách được coi là những tác phẩm non-fiction liệt kê trong danh sách best-seller về chiến tranh Việt Nam và được đề cập nhiều trong các mục book review của các tờ báo có uy tín của Hoa Kỳ. Là những trang sử nguyên thủy của sự thực, của những điều thách đố sự giả trá trước đây và là những trang sách mà bất cứ người Hoa Kỳ nào cũng phải đọc và để ý đến.Với con mắt của một nhà quân sự với kinh nghiệm làm việc và chiến đấu của một sĩ quan cấp tá Thủy Quân Lục Chiến, ông đã phân tích từng dữ kiện một cách khách quan. In cuốn sách này, ông không phải chỉ bắt đầu với ý định tìm những sự thực công chính của một cuộc chiến đầy phức tạp, một cuôc chiến khiến hơn 50 chục ngàn quân nhân nam nữ Hoa Kỳ bị hy sinh và để lại nhiều hậu quả còn tồn tại cho đến ngày nay. Ông nhìn cuôc chiến qua cách ngắm nhìn những anh hùng của cuộc chiến, những người đã mang chính cả cuộc đời của họ và gia đình họ cho những lý tưởng chiến đấu mà họ tôn thờ. Đó là cầm súng để bảo vệ tự do. Họ, là thiếu tá Lê Bá Bình, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 3 Sói Biển Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam, là trung tá Gerry Turley, cố vấn trưởng sư đoàn TQLC/VN,là đại úy John Ripley cố vấn trưởng tiểu đoàn 3 TQLC /VN. Tiểu đoàn 3 TQLC với hơn 700 tay súng đã đối diện với hơn 20 ngàn binh lính Cộng sản Bắc Việt và đã chận đứng được làn sóng xâm lăng hung hãn cũa địch quân có đầy đủ xe tăng và trọng pháo yểm trợ. Họ, trong những hoàn cảnh nghiệt ngã nhất của chiến trường. Và, đã có lòng quả cảm vô bờ để có được những quyết định nhanh chóng và nhạy bén nhất để đối phó với tình thế. Thiếu tá Lê Bá Bình (sau lên trung tá) là nhân vật chính của “Ride the Thunder” với cả cuộc đời của ông phục vụ cho QLVNCH. Từ khi lập gia đình ông đã trải qua nhiều trận đánh lẫy lừng trên nhiều địa danh nổi tiếng trong quân sử với thành tích chiến thắng. Năm 1972, trong chiến dịch Tổng Công Kích Mùa Hè của Cộng sản Bắc Việt, đã chận đứng và đẩy lui lưc lượng CSBV khi chúng có ý định vượt cầu Đông Hà để tiến vào Quảng Trị. Và cũng trong thời kỳ này trong chiến dịch tái chiếm Cổ thành Quảng Trị, tiểu đoàn 3 Sói Biển cùng các tiểu đoàn TQLC khác đã tạo chiến công làm kinh động cả thế giới. Sau năm 1975 ông đã bị tù cải tạo tới 11 năm trời qua các trại tù khổ sai khắc nghiệt nhất như trại Nam Hà. Sau đó gia đình ông được qua Mỹ theo diện HO vào năm 1991, Trung tá Lê Bá Bình đã được Quân Lực Hoa Kỳ tặng huy chương cao quý Silver Star, một loại huy chương cao nhất có thể tặng cho một quân nhân ở ngoài quân đội Hoa Kỳ vì tấm gương anh dũng chống lại kẻ thù của nước Mỹ. Theo tác giả Richard Botkin thì chân dung chiến sĩ của Trung tá Lê Bá Bình là một chân dung điển hình cho trường hợp của hầu hết các gia đình sĩ quan QLVNCH, đã chiến đấu và dâng hiến cả cuộc đời cho Tổ Quốc Việt Nam. Sau khi thua trận , họ chịu những đòn thù của kẻ địch với những án giam vô định nhưng người vợ vẫn chung thủy nuôi con chờ ngày chồng trở về xum họp. Cuộc đời và thành tích chiến công của Trung tá Lê Bá Bình đã phản bác lại tất cả các lời kết án vô căn cứ của giới truyền thông Hoa kỳ từng nói xấu và gièm pha về QLVNCH. Trung tá Lê Bá Bình, biệt danh truyền tin là Bắc Giang, xuất thân khóa 12 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ đức và ra trường là tình nguyện phục vụ tại binh chủng TQLC vào năm 1962. Khởi đầu binh nghiệp với chức vụ Trung đội trưởng. Sau khi du học Hoa Kỳ năm 1964 lần lượt giữ các chức vụ quyền đại đội trưởng, đại đội trưởng và tiểu đoàn phó năm 1969. Sau cuộc hành quân Lam Sơn 719 tại Hạ Lào, ông được cử giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3 TQLC biệt danh Sói Biển năm 1971. Trong cuộc chiến Mùa hè Đỏ Lửa năm 1972, ông và tiểu đoàn đã chận đứng được làn sóng xâm lược của CSBV ở Đông Hàvới sự xông xáo, năng nổ, tài trí nhưng không kém phần liều lĩnh. Hơn phân nửa quân số của Tiểu đoàn 3 TQLC bị hy sinh hay thương tích nặng trong đó có cả Tiểu Đoàn Trưởng Lê Bá Bình. Tạm rời vùng chiến trậnông giữ chức Chỉ huy trưởng căn cứ Sóng Thần. Sau khi mãn khóa Chỉ huy Tham mưu tại Long Bình, ông ra tiền tuyến giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 6 TQLC cho đến ngày 30 tháng tư năm 1975. Ông bị tù cải tạo trong 11 năm qua các trại tù Long Khánh, Suối Máu, Yên Bái, Đầm Đùn và Hàm Tân. Phong trào phản chiến đã tạo một cái nhìn lệch lạc về chân dung người lính VNCH. Những người lính can trường Việt Nam đã bị gán ghép với những hình ảnh không đẹp, sĩ quan thì tham nhũng hèn nhát, binh sĩ thì không chịu chiến đấu. Do sự hỗ trợ của cả hệ thống các nước Cộng sản, CSBV đã từ vị trí của kẻ xâm lược hiếu chiến để trở thành những người chiến đấu cho tự do. Trong công luận Hoa Kỳ, những hệ thống truyền thông của người DoThái đã tạo ác cảm đối với chế độ VNCH và chính những bài báo, những phim ảnh, những tiểu thuyết phản chiến ấy đã làm Hoa Kỳ rút lui khỏi Việt Nam. Ngay cả những tiểu thuyết, biên khảo của những người Hoa Kỳ ủng hộ chiến tranh Việt Nam cũng có cái nhìn méo mó thiên lệch. Vai trò của người lính Việt nam bị coi như phụ thuộc trong cuộc chiến. Họ bị quên lãng một cách cố ý và nếu có nhắc đến thì cũng là những hình ảnh không đẹp. Một ví dụ, Truyện BAT 21 đã được viết và kể lại những chi tiết kỳ thú về trung tá Hambleton. Ông là một điều hành viên không hành đã tham gia Đệ Nhị Thế Chiến và Chiến Tranh Triều Tiên. Ông là một nhân viên phi hành kỳ cựu của Không Quân Chiến Lược Hoa Kỳ và mới thuyên chuyển sang phi đoàn Không Quân Chiến Thuật thám sát điện tử 42 TWES. Đồng thời ông cũng là một tay chơi golf có hạng. Trong khi bị săn đuổi, Hambleton cũng biết là quân Cộng sản cũng theo dõi cuộc nói chuyện bằng radio cấp cứu với phi cơ đang bao vùng để lùng bắt mình nên nghĩ ra một phương pháp mã hóa để trên trời và dưới đất hiểu nhau nhưng quân địch thì hoàn toàn mù tịt. Bởi vì người phi công bao vùng trên trời và cả bộ Chỉ Huy cuộc tìm kiếm hiểu rõ về kỹ thuật chơi golf và dễ dàng truyền đạt tình hình cũng như hướng dẫn xác định khoảng cách và vị trí của mình qua môn thể thao 18 lỗ.Với quân cộng sản thì làm sao có hiểu biết về kỹ thuật chơi golf nên khi nghe được điện đài thì cũng chịu không làm sao hiểu rõ được vị trí để lùng bắt. Và phi công Hambleton đã chơi một trận đánh golf có một không hai của đời mình. Bắt đầu trận golf, phi cơ trên không trung truyền xuống là khởi đầu chơi ở sân golf Tuscon National Air Base. Hambleton đối chiếu trên bản đồ và biết ngay rằng mình phải di chuyển về phía đông nam 430 yards. Tiếp theo là lỗ thứ năm của sân golf David Monthan Air Force Base, nghĩa là phải di chuyển tiếp theo 100 yards về phía đông, rồi tiếp là lỗ thứ năm của sân golf Edward Air Force Base tức là lệnh di chuyển tiếp 210 yards về phía nam. Rồi tiếp tục như thế mà di chuyển một cách bí mật an toàn trong vùng địch đến mục tiêu để được Biệt Hải giải cứu. Những chi tiết như thế rất nhiều trong cuốn sách đã gây được sinh động cho tác phẩm. Ơû đó, độc giả thấy được lòng can đảm của con người cộng với sự tính toán của khoa học đã giúp cho phi công Hambleton thoát hiểm.Nhưng, khi kể lại Hambleton đã lờ đi không nhắc đến người chiến sĩ Biệt Hải Nguyễn Văn Kiệt đã cõng mình trên vai cả 2 dặm để được cứu sống. Ông ta đã coi thường người ân nhân của mình khiến có người lính Hoa Kỳ khi Hambleton ra mắt sách đã phẫn nộ và gọi ông ta là kẻ vô ơn. Trong tác phẩm BAT21 ông cố tình hạ thấp giá trị của người lính VNCH. Sau này, mấy chục năm sau, Nguyễn Văn Kiệt mới được vinh danh và nhận được huy chương cao quý nhất của quân lực Hoa Kỳ. Một cuốn sách và một cuốn phim đã gây sựï phẫn nộ cả từ trước năm 1975 và bây giơ cho những độc giả và khán giả yêu sự thực.. Đó là cuốn sách “The Green Berets” sau đó được chuyển thể thành phim ảnh. Cuốn sách viết ra với mục đích là tán đồng sự can thiệp bằng quân sự của Hoa Kỳ vào Việt Nam và xuất hiện trong cao điểm chiến tranh nhất với sự hiện diện của hơn nửa triệu quân bộ chiến tại Việt Nam. Cuốn sách mà tác giả là ký giả Robin Moore ghi chép lại từ khung cảnh của trại huấn kuyện Fort Bragg của Lực Lượng Đặc Biệt Hoa kỳ đến không khí nghẹt thở của chiến trường Việt Nam. Cuốn sách này có mục đích là tôn vinh và khen ngợi binh chủng này trong sứ mạng cố vấn và yểm trợ cho binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt Việt Nam. Họ đã có mặt và sát cánh chiến đấu từ những trại biên phòng ở biên giới để ngăn chặn sự xâm nhập của quân Cộng sản hay những chuyến thám sát vào sâu trong vùng kiểm soát của Cộng sản để thu thập tin tức tình báo, bắt cóc những cán binh Việt Cộng mang về khai thác. Nhưng, cuốn sách lại có những luận cứ kỳ thị và bôi nhọ, vu cáo và hạ giá LLĐB Việt Nam.Thí dụ như danh hiệu LLĐB của Việt Nam thì bị gọi là ”Lousy Little Dirty Bug-Outs” có nghĩa là những con sâu bọ nhỏ bé và dơ bẩn. Cũng như đã kể những chuyện tiêu cực như Toán A của LLĐB/ VN đã đánh lừa và cho tin tình báo sai lệch để Toán A của LLĐB Hoa Kỳ vào hiểm địa để bị tiêu diệt. Hoặc những sĩ quan chỉ huy các Biệt Kích Quân thuộc Dân Sự Chiến Đấu đã bắt thuộc cấp sắp hàng nhiều lần để gian lận tiền lương và sau đó mang nộp trở lại để bỏ vào túi riêng. Sau đó cuốn sách được tài tử cao bồi miền Viễn Tây John Wayne sau chuyến thăm Việt Nam về thực hiện thành phim cũng với nhan đề là “The Green Berets” với những tài tử như John Wayne, George Takei, David Jenson, Jon Hutton, Jack Soo, Ado Ray. Phim này được xếp vào hạng cổ võ cho chủ trương của Tổng Thống Lyndon Johnson can thiệp bằng quân sự vào Việt Nam và hóa giải những tư tưởng phản chiến. Cuốn phim hoàn tất năm 1968 khi mà cường độ chiến tranh ác liệt nhất và mang sang Việt nam chiếu cho lính Mỹ xem sau đó chiếu rải rác ở các rạp trên đất Hoa Kỳ và Việt Nam. Nhưng phim “The Green Berets” không phải là một phim giá trị và cả cuốn sách cũng chẳng phải là một tác phẩm văn chương đúng nghĩa. Nó chứa đầy những tiêu cực với thái độ kẻ cả coi thường người bạn đồng minh và nhục mạ binh chủng LLĐB tinh nhuệ nhất của Quân Lực VNCH. Những khóa sinh Không Quân du học ở Hoa Kỳ trong thời gian 1969 chắc còn nhớ thái độ tẩy chay quyết liệt khi xem phim này. Trong phim, John Wayne trong vai trò của Đại Tá Kirby, một sĩ quan anh dũng oai phong trong khi vai của một Đại Tá của LLĐB VN (Đại Tá Cai) là tài tử gốc Trung Hoa Jack Soo tóc chải tém quê mùa và khi nhảy dù ra khỏi máy bay đã run sợ để bị một cú đá của huấn luyện viên vào đít mới ra khỏi cửa phi cơ để nhảy vào không trung được. Bây giờ, xem lại phim và đọc lại những trang sách, tôi thấm thía với thân phận nhược tiểu. Bài học ở Việt nam vẫn chưa hết ở những xứ sở như ở Iraq, ở A Phú Hãn. Thái độ coi thường đồng minh đã làm cho quân đội Hoa kỳ đã bị sa lầy trong cuộc chiến. Riêng tôi, tôi lại thấy ngậm ngùi cho xương máu của những người lính Việt Nam, mang trên vai một gánh nặng trách nhiệm của một cuộc chiến mà vai trò bị lu mờ coi như phụ thuộc. Có lẽ đó là một bất công oái oăm nhất của lịch sử. Nhưng có những tác phẩm đã nói lên sự thực tư những sự kiện có thực và những nhân chứng có thực. QLVNCH là một quân lưc hùng mạnh và anh dũng.Chiến đấu vì lý tưởng tự do, giữ vững đất nước, có những anh hùng đã mang máu , mồ hôi, thân xacù của mình hy sinh cho lý tưởng họ tôn thờ. Tác phẩm Ride The Thunder (Cưỡi trên đầu sấm sét) đã làm rõ ràng biểu hiện được tinh thần quyết chiến và hoàn tất trách nhiệm một cách cao độ của những người cùng chung một binh chủng kiêu hùng TQLC dù là người Việt Nam hay Hoa Ky. Họ chiến đấu bên cạnh nhau, là cấp chỉ huy Việt nam hay cố vấn Hoa Kỳ, cùng trải qua những khó khăn và vượt qua với sự can đảm của những anh hùng thời chiến. Cuốn sách của đã ghi chép lại những chiến công của một chống 25, của cuộc đẩy lui làn sóng xâm lược với quân số gấp bội và phương tiện như thiết giáp , pháo binh cũng gấp mấy chục lần. Những người lính của Tiểu đoàn 3 TQLC ViệtNam đã dùng vũ khí cá nhân để diệt chiến xa mang sự can trường và lòng quyết thắng để tạo thành công trạng lừng lẫy. Richard Botkin ghi chép lại từng chi tiết của cuộc chiến và đặc biệt nhắc đến những cấp chỉ huy và cố vấn trong cuộc Tổng Tấn Công Mùa Hè Đỏ Lửa của những ngày 2 tháng tư của lễ phục sinh năm 1972. Đối với các nhà nghiên cứu quân sử tây phương, trận chiến có tính cách chiến lược và có thể làm sụp đổ cả một quốc gia. Mặc dù tất cả những quân nhân tham dự trận chiến đều có sự dũng cảm đáng ca ngợi nhưng Richard Botkin chú trọng vào ba nhân vật chính. Một là trung tá Gerry Turley, người chỉ hiện diện ở vùng chiến địa có hai ngày trước khi CSBV khởi sự tấn công. Ông đến để viếng thăm cũng như nhận định tình hình trực tiếp của chiến trường đột nhiên im lắng. Hoàn cảnh và một loạt những biến cố bất thường không dự trù trước đã đẩy ông lên một vai trò rất đặc biệt trong đời quân ngũ của ông. Kẻ địch của ông là những kẻ cuồng tín với phương tiện quân sự chiếm ưu thế tuyệt đối trong tay và cũng là một kẻ thù đầy mưu mô hiểm độc. Ở bên phía bạn ông phải đối phó với hệ thống chỉ huy quan liêu nặng nề của quân đội Hoa kỳ và Việt nam. Họ không hiểu thấu được sự phức tạp của trận chiến nên có nhận định không chính xác hoặc không kịp thời khi nhu cầu chiến trường đòi hỏi. Hai là nhân vật đại úy Ripley với hành động quả cảm là giật sập cầu Đông Hà trong hoàn cảnh cực lỳ khẩn cấp được coi là một công việc kịp thời và chận đứng được làn sóng tấn công của các binh đoàn CSBV. Việc làm ấy mang tính chiến lược đã ảnh hưởng đến cả cục diện chiến trường. Ba là nhân vật thiếu tá Lê Bá Bình, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3 TQLC Sói Biển, người đã có tình thân hữu và huynh đệ với đại úy Ripley cố vấn trưởng tiểu đoàn. Với vài trăm quân sĩ thuộc quyền đối diện với hơn 20 ngàn quân sĩ CSBV đang lăm le nuốt chửng đơn vị, họ đã chiến thắng và làm ngạc nhiên chính kẻ thù của mình. Tình bạn chân thành của hai chiến binh cùng sống chết với nhau đã vượt qua những hàng rào chủng tộc ngôn ngữ và văn hóa khác biệt nhau. Cùng chung lý tưởng, cùng một mục đích, họ đã thành những anh hùng của cuộc chiến. Thiếu tướng TQLC Hoa Kỳ hồi hưu James Joy đã là cố vấn trởng của Lữ Đoàn 147 TQLC trong thời kỳ 1971, 1972 , trong bài tựa cho cuốn sách đã viết: ”Nếu đã có thêm nhiều chến sĩ như L ê Bá Bình thì chắc chắn kết quả cuộc chiến Việt Nam sẽ khác hẳn. Khác biệt với hầu hết các cuốn sách hồi ký chiến trường loại này, tác giả Richard Botkin đã theo dõi thật chi tiết cuộc sống gia đình của từng chiến binh và kể lại chiến sự qua những trải qua chiến trận của họ. Trong khi nghiên cứu về lịch sử chiến tranh thường thường người ta chỉ tập trung vào mục đích là phác họa lại chân dung người lính mà không đế cập đến những yếu tố khác. Như vậy, chỉ mới kể được có một nửa câu chuyện mà thôi. Với tư cách một người đã tham dự những trân giao tranh tại đó, đã từng chứng kiến nhiều cuộc thử thách được ghi chép lại trong thời kỳ đặc biệt dữ dội lúc đó, tôi vẫn không tưởng tượng nổi những gì xảy ra cho bạn bè của chúng tôi sau khi phần tham chiến của Hoa Kỳ đã kết thúc. Đối với sĩ quan TQLC ViệtNam và gia đình họ, cơn ác mông dường như bất tận của trại tù khổ sai cải tạo mà Công Sản đã chụp lên đầu họ một cách tàn nhẫn từ sau tháng tư năm 1975, trong trường hợp Lê Bá Bình là gần 12 năm trời đã nói lên sự kiên trì, lòng nhẫn nại và niềm vinh quang của tinh thần con người. Nước Mỹ thật đã có phước khi có những chiến binh như John Ripley và Gerry Turley phục vụ dưới cờ mà nay lại còn may mắn gấp bội khi được kể thêm những người như Lê Bá Bình là công dân Hoa Kỳ. “ Cưỡi trên đầu sấm sét” là một cuốn sách đáng đọc có những chi tiết ly kỳ của một mảnh lịch sử hầu như chưa được nói đến và đề cập bao giờ” Tác giả Richard Botkin mở đầu những trang sách của mình: ”Khi bắt đầu nghiên cứu và khám phá ra những bộ chuyện mà sau này sẽ trở thành cuốn sách ”Ride the Thunder” (Cưỡi trên đầu sấm sét), bản thân tôi đã bị lôi cuốn bởi những nhân vật và phong cách mà từng người trong những hoàn cảnh khác nhau đã biểu lộ được lòng quả cảm không chịu khuất phục và tinh thần không bị lay chuyển cũng như thể lực vững chắc mạnh mẽ. Tôi đã bị thu hút` bởi một hấp lực từ phong cách mà Lê Bá Bình, John Ripley, Gerry Turley và một số các chiến sĩ khác đã chiến đấu, chịu đựng những nghiệt ngã thống khổ, đã chịu đổ máu và cam chịu những nỗi nhẫn nhục tận cùng để cuối cùng đạt được vinh quang trong những điều kiện của hoàn cảnh được xem là tuyệt vọng thật sự. Trong một thế giới mà hầu hết mọi người chỉ thích thú vinh danh sự trống rỗng vô vị và ăn mừng những điều không nghĩa lý, một thế giới mà sự định nghĩa truyền thống về anh hùng và lòng kiêu dũng đã trong thời gian nhiều năm qua bị hạ giá, có khi còn bị bóp méo thì Ride The Thunder chào mừng nhữngnhân vật ấy cùng với các phụ nữ đã sát cánh bên họ, vì nhân tính của họ và quan trọng nhất vì họ chỉ là những chiến sĩ thuần túy thứ thiệt.” Khi chiến trận xảy ra, quân CSBV gồm 3 sư đoàn bộ binh tăng cường 4 trung đoàn bộ binh địa phương, 2 trung đoàn pháo binh và 2 trung đoàn thiết giáp. Trong thành phần ấy có những sư đoàn nổi danh thiện chiến như sư đoàn 304, sư đoàn 308… đã tham dự trận Điện biên Phủ. Trong khi đó phòng tuyến phía bắc của QLVNCH chỉ có sư đoàn 3 bộ Binh tân lập và phía tây là 2 lữ đoàn TQLC. Khi bị lực lượng mạnh mẽ áp đảo của CSBV tấn công, sư đoàn 3 Bộ Binh đã bị tan vỡ và tháo chạy hỗn loạn. Lúc đó, trách nhiệm phòng thủ đè năng lên TQLC và một lữ đoàn nhảy dù. Trong vai trò của một nhân chứng, đại tướng TQLC Hoa KỲ hồi hưu Walter Boomer kể:” thật không hay cho những ai trong chúng tôi còn trấn giữ địa hình. Tình hình của tiểu đoàn mà bản thân tôi và đại úy Ray Smith(sau này lên Thiếu tướng) làm cố vấn là điển hình cho hầu hết các cố vấn đồng nghiệp đã phải đối đầu. Sau khi chống cự mãnh liệt lúc ban đầu và chịu tổn thất nặng nề, chúng tôi đơn giản là đã bị tràn ngập bởi làn sóng tấn công toàn diện. Chúng tôi bắt đầu triệt thoái về hướng đông trong lúc lưc lượng CSBV đông hơn gấp bội truy đuổi theo. Mục tiêu của chúng tôi là Cổ Thành Quảng Trị. Điều mà hầu hết chúng tôi không biết là ngay lúc đó một đoàn chiến xa BV đang di chuyển về phía nam trong ý định cắt đứt đường rút quân của chúng tôi. Giữa chúng tôi và nguy cơ bị tiêu diệt là chiếc cầu Đông Hà bắc ngang sông Cửa Việt. Con sông đó là một trở ngại lớn và chiếc cầu hết sức quan trọng trong kế hoạch của quân CSBV. Đại úy John Ripley (sau này thăng cấp lên đại tá) trong một hành động đã thành huyền thoại trong quân sử của TQLC Hoa Kỳ đã bò dưới gầm cầu nhiều lần dưới làn mưa đạn ác liệt để gài mìn phá hủy cầu. Ông đã giật sập được cây cầu này trong lúc toán tiền quân của CSBV đang cố gắng vượt qua. Đối với chúng tôi, những người đang chạy thoát theo hướng đông hay đơn giản hơn đang cố sống sót, đó là một hành động dũng cảm m chúng tôi mãi mãi ghi ơn. Nếu Ripley không phá giật sập cây cầu, tôi tin là hầu hết các TQLC Việt Nam và cố vấn Hoa Kỳ đều đã bị giết hoặc bị bắt hết rồi. Nhân vật đã cố gắng tái tạo lại trật tự từ sự hỗn loạn và ra lệnh cho dại úy John Ripley phá hủy cây cầu chính là Trung tá Gerry Turley (sau lên đại tá). Bị đẩy vào một tình thế coi như tuyệt vọng, lòng quả cảm, thái độ bình tĩnh và bản lĩnh quân sự chuyên nghiệp đã là chất keo kết dính với nhau vững chắc để cuộc diện tình thế toàn thể không bị tan vỡ. Trong tác phẩm , Botkin đã làm rõ ràng hơn một tình thế để độc giả hiểu biết được sự quan trọng của hành động của Turley. Cũng như soi sáng phần nào để nhận thức được những sự kiện có khi quái dị hay điên rồ có thể xảy đến trong chiến tranh. Đại tướng Walter Boomer kết luận :”nếu bạn có khuynh hướng cho rằng chiến thắng của Cộng sản không đáng buồn” Ride the Thunder” sẽ làm bạn tỉnh ngộ ngay về quan niệm đó. Dệt trong lời kể là câu chuyện của Trung tá Lê Bá Bình, một TQLC, một người yêu nước, một người chồng và một người cha. Bình là sĩ quan Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn TQLC mà John Ripley làm cố vấn. Câuchuyện của Bình sẽ làm bạn nổi giận, rồi gây cảm xúc và hứng khởi và cuối cùng là sưởi ấm trái tim bạn. Đoạn kết thua bại của cuộc chiến và ảnh hưởng bi thảm của nó đối với hàng triệu người miền Nam đã được hình tượng qua hành trình của cuộc đời Bình. Ngoaiø ra tác phẩm cũng kể chuyện gia đình của nhiều TQLC, Việt Nam cũng như Hoa Ky khác mà sự hy sinh và lòng can đảm rất điển hình cho các gia đình quân đội trong quá khứ và hiện tại. Đối với những người trong chúng tôi đã chọn binh nghiệp thì sự hỗ trợ, lời khuyến khích và sự trung thành của họ vẫn mãi mãi là một niềm cảm hứng. Lịch sử về chiến tranh thường được viết bởi kẻ thắng cuộc và bọn Cộng sản đã cố gắng xóa hết vết tích ghi chép, không nhắc nhở đến các thành tích đáng ca ngợi của TQLC. ”Ride the thunder” bắt đầu viết trở lại vào lịch sử câu chuyện chưa được kể về những người lính TQLC Việt Nam và gia đình; họ chưa bao giờ đầu hàng, chưa hề bỏ cuộc và chưa khi nào mất niềm tin. Đối với những người đã từng chiến đấu, đã chịu đau khổ và vươn lên quá nhiều để đạt được sự Tự do cho chính họ với tư cách là các công dân mới của đất nước Hoa Kỳ thì “ Ride the thunder” là một câu chuyện xứng đáng được chia sẻ với các thế hệ tiếp nối của nước Mỹ đặc biệt là người Mỹ gốc Việt. Tôi hy vọng cuốn sách này sẽ giúp họ hiểu được cái giá mà cha ông họ đã phải trả nhằm bảo vệ nền tự do mà ngày nay họ đang được hưởng. Và sau cùng trong khi cái danh xưng Thủy Quân Lục Chiến đã chiếm được một vị trí đặc biệt trong tim người Mỹ, công việc kể lại các thành tích và lòng phục vụ của Lê Bá Bình và những nhân vật như ông sẽ làm cho người đọc cũng sẽ trân trọng cái tiếng gọi đó trong lòng những người Việt Nam vậy.” Nguyễn Mạnh Trinh
|
Thursday, September 19, 2013
Lệ Khánh, Em Là Gái Trời Bắt Xấu
Nguyễn Mạnh Trinh![]() Nhà thơ Lệ Khánh Có một thi sĩ nổi danh viết về một người thơ nữ đã in những tập thơ có thể nói là tạo thành một hiện tượng thi ca: “Khi những người tuổi trẻ yêu, đừng bắt họ nhân danh Nghệ Thuật hay Chân Lý để làm thơ! Chính Lệ Khánh chẳng đã từng thú nhận: Lệ Khánh làm thơ, in thơ, bán thơ, nhưng Lệ Khánh không “bán tim”... và hẳn Lệ Khánh không hề có tham vọng làm một nữ sĩ “chuyên nghiệp” chiếm riêng một chỗ ngồi trong Văn Học Sử ngày mai. Lệ Khánh chỉ muốn làm một người tình nhân bé nhỏ, ngày hôm nay, có riêng một chỗ ẩn náu kín đáo ở…trong trái tim người yêu cho tiếng thơ thành khẩn của mình được một tấm lòng mến thương đón nhận, cho linh hồn bé bỏng của mình được một vòng tay khăng khít bao dung. Mà như vậy thì, dù muốn dù không, Lệ Khánh cũng đã tự nhiên là một thi sĩ! Một thi sĩ của tình yêu, hòa đồng chính đời sống cùng số phận mình vào Thơ, cũng như đem tất cả hoa hương mộng ảo của thơ dâng hiến cho Tình.” Thi sĩ nổi danh trên là Ðinh Hùng viết về một nhà thơ nữ mang tên Lệ Khánh, tác giả của những tập thơ với nhan đề gây thật nhiều ấn tượng “Em là Gái Trời Bắt Xấu.” Tập thơ đã gây xôn xao dư luận một thời và sau đó là 4 thi tập khác tiếp theo do nhà xuất bản Khai Trí in mang cùng nhan đề đã có số bán kỷ lục trên toàn miền Nam thời ấy.
Ðặc biệt, ở Ðà lạt, thành phố sương mù, nơi sinh sống của Lệ Khánh, thì những người hâm mộ yêu thích thơ Lệ Khánh cũng rất nhiều, nhất là những người lính trẻ của các quân trường thời đó. Tôi đã gặp một cựu sinh viên sĩ quan Võ Bị Ðà Lạt khóa 16 kể về tập thơ đầy kỷ niệm này với ông và đã đọc hai bài thơ mà ông đã thuộc đến nằm lòng thời trước và đến nay là hơn nửa thế kỷ, qua bao nhiêu biến cố thời thế dập vùi, mà vẫn còn nhớ không sót một câu. Chính ông cũng tâm sự rằng ông không phải là người độc nhất như thế mà còn rất nhiều người cùng khóa đều mang chung ý nghĩ như vậy. Ở Sài Gòn, năm 1962, có một sự kiện thơ văn khá lạ. Nhà văn Duy Năng kể: “Khoảng cuối năm nhâm dần, một loạt sáu bài thơ của Lệ Khánh được đăng cùng trên một trang báo Văn Nghệ Tiền Phong. Không phải từ lúc ấy thơ Lệ Khánh mới bắt đầu xuất hiện, nhưng những tác phẩm khép nép, nhỏ nhoi kia của “người con gái trời bắt xấu” đã được nhiều người đọc đến từ lâu và cũng từ đó về sau này. Khi 6 bài thơ được chăm sóc giới thiệu cùng một lúc tôi hiểu rằng đã có một cái gì khởi đầu. Tôi không nghĩ là thiên tài cũng không dám nghĩ là một vinh quang rồi sẽ rạng ngời và hiện tượng T.T.KH. của văn học mà tác giả chỉ được chiêm ngưỡng trong ảo tưởng hay như vì sao chợt sáng rồi chợt mờ, đã xui tôi dậy lòng lo âu để nghĩ rằng đừng bắt Lệ Khánh là vừng trăng mười sáu của một địa cầu bất động tuy với những bài thơ khai nguyên từ năm 15 tuổi tôi được nhận đọc, không chỉ với tâm hồn thi sĩ mà còn với tấm lòng thương yêu cháu gái. Nhưng tôi hiểu, đã có một cái gì bắt đầu với lời thú nhận nghẹn ngào “Em là gái trời bắt xấu” ghi trong ngoặc dưới những bài thơ thảm trạng đó”
Trong thời gian ấy, đã có người nhận xét: “Lệ Khánh ở Ðà Lạt “Em là gái trời bắt xấu” ra đời ở vùng Cao nguyên lạnh như băng này… Rồi tiếng thơ Lệ Khánh bay xa khỏi miền Cao nguyên về vùng thành thị, tiếng nức nở ấy làm cho người thưởng ngoạn chợt bâng khuâng không biết ví von ra làm sao để diễn tả nổi cái buồn đau của Lệ Khánh… Nhưng khi ai đã đi một mình trong màn mưa phùn lâm râm, đang thèm khát một ly cà phê hay cảnh một gia đình, lúc ấy nhạc Chopin vọng tới, buồn vô cùng.. thì đấy thơ Lệ Khánh như vậy” Nửa thế kỷ, sau những bài thơ dung dị, viết mà không muốn xác định vai trò của một người muốn chen chân vào ghế ngồi văn học sử, của “Em là con gái trời bắt xấu” vẫn còn hiện hữu và vẫn còn sức sống. Ghé qua các trang mạng của tuổi học trò, những Hoa Cô Ðơn, những Hạt nắng, những Áo trăng, những Cổng trường xưa,… vẫn thấy những câu hỏi về Lệ Khánh, hay chép cho nhau những bài thơ của “Em là gái trời bắt xấu”. Một thời gian dài như thế, thơ vẫn còn sức sống, vẫn còn được đọc, và ngôn ngữ thi ca của một thời còn hiển hiện. Tại sao lại có hiện tượng như vậy? Nếu có ai phân biệt thơ bình dị và thơ trí tuệ thì giải thích giùm sự kiện ấy? Hay là, có phải thơ gây được cảm xúc cho lòng người sẽ còn tồn tại lâu dài cho người yêu thi ca? Ðọc trên mạng những dòng chữ để thấy tâm tình của những người thế hệ sau: “Dĩ nhiên “nhan sắc” vẫn muôn đời là “nhan sắc” là cái vỏ bề ngoài do người ta tạo dựng lên bằng cái “ngôn ngữ của kẻ thống trị”. Mà “kẻ thống trị” từ xưa đến nay có phải chỉ là quí ông? Hãy nói về Lệ Khánh và “tiếng kêu thảng thốt” từ bên kia cực của Nhan Sắc. Tiếng kêu bi thảm “Em là gái trời bắt xấu” ngày ấy đã làm tôi thắc mắc và đã trợn tròn mắt hỏi chị “em có thấy chị xấu đâu mà tại sao…” Tại sao… chị đã chẳng trả lời, chị? Cúi đầu cảm nhận để cho những “ kẻ thống trị” đánh giá mình bằng cái vẻ xấu đẹp theo những quan niệm và những nhận định phiến diện của riêng họ. Và hãy nói về Nguyễn Thị Hoàng với cực bên này của Nhan Sắc là tứ đại, ngũ đại, thập đại… giai nhân. Chưa gặp cô, hình ảnh cô trong tôi là hình ảnh của cô Tôn Nữ Kim Phượng “với ánh nắng mai lấp lánh trên áo len lông màu hoàng yến nhảy múa theo bước chân cô từ văn phòng đến lớp” và là hình ảnh của cô Kỳ Hương”.. “với nụ cười hiền hậu..” vậy mà khi gặp cô, rất gần, rất thật, chỉ cách một hàng ghế và nghe cô nói hơn một tiếng đồng hồ, những hình ảnh ấy vụt biến đi dù tôi đã cố giữ… Tại sao tôi không hề thấy hay cảm được cái gọi là “ma lực” của cô Nguyễn Thị Hoàng mà lại bị ma lực của chị Lệ Khánh quyến rũ? Cái gọi là Nhan Sắc vì thế có phải chăng chỉ là ảo ảnh, không hơn không kém. Cũng như “người yêu của đấng trời”, cũng như con cá đi lạc ra ngoài hồ nước của con bé lên ba… và có phải chị có niềm tin mới biến những ảo ảnh có đấy mà không có đấy để rồi niềm tin chính nó cũng chỉ là những ngụy biện không hơn không kém…” Lệ Khánh đã in tập thơ đầu tiên “Em là gái trời bắt xấu” lúc vừa 20 tuổi. Và sau đó từ năm 1964 đến 1966 nhà xuất bản Khai Trí đã in liên tục từ tập 1 đến tập 5 và thơ của bà đã được độc giả đón nhận nồng nhiệt. Nhà văn Thế Phong đã nhận xét: có thể nói Lệ Khánh được nhiều độc giả đọc nhiều, thuộc nhiều, nhắc nhở nhiều chẳng kém gì Nguyễn Bính thời tiền chiến. Tập thơ “Em là gái trời bắt xấu” cả 5 tập có thể nói bán chạy nhất, hơn cả thi sĩ Nhất Tuấn thời ấy được coi là tác giả lục bát có thơ bán chạy”
Thơ của Lệ Khánh có nét riêng biệt ra sao và lý do gì mà thơ của bà được yêu thích nhất là đối với những chàng sinh viên sĩ quan Võ bị Ðà Lạt thời gian ấy? Lệ Khánh làm thơ về những mối tình ngang trái về tâm tư đau buồn đầy nước mắt đầy bi lụy. Tình yêu của bà là những mối tình không thành tựu của những nhớ nhung luôn dằn vặt đời sống. Với tâm sự như thế, thơ của bà là những biểu hiện của nỗi đau có thực của tâm tư luôn đau khổ vì yêu. Trong cuộc đời thực, đã có lỡ làng, đã có chia phôi và kỷ niệm lúc nào cũng vẫn là những nỗi đau của vết thương tâm không liền da, liền thịt. Thơ cuả Lệ Khánh ngôn ngữ bình dị đời thường, hình ảnh biểu tượng thi ca cũng không có gì đặc biệt nhưng chính vì những nét đơn sơ bình dị của một người làm thơ nữ đã tạo ra được không gian thi ca tuy có nét hiện thực gần gũi cuộc sống nhưng lại có nét mong manh sương khói của những người có trái tim luôn đập nhịp dồn dập khôn nguôi để tạo thành một biển trời cảm giác. Tôi đọc lại những bài thơ cũ trong “Em là gái trời bắt xấu” để cùng có chung cảm giác với những người đã một thời yêu những vần thơ của kỷ niệm, của những người có tình nhân là lính chiến, là những mơ mộng và những đớn đau trộn lẫn. Ai cũng yêu quí và trân trọng kỷ niệm của riêng mình, dù là những hằn dấu đớn đau hay có khi ngập tràn nước mắt.
Thí dụ như bài Áo Tím Ngày Xưa:
“Con đường này kỷ niệm Những ai đã là sinh viên sĩ quan trường Võ Bị chắc không lạ gì với con đường Lâm Viên và mồ cô Thảo, một nơi chốn chứa đựng cả một trời tình sử. Lệ Khánh viết Ðường Vòng Lâm Viên như một trao gửi đến người xưa về cảnh cũ:
“Em tìm đến con đường Lâm Viên nhỏ
Lệ Khánh sống ở Ðà Lạt, có mối tình đầu với một sinh viên sĩ quan Võ Bị. Với bà, thành phố sương mù này là thành phố của tình yêu nhưng lại là nơi chốn của những mối tình đau khổ. Tràn đầy yêu thương, chất ngất cảm xúc nên đã viết được những bài thơ mang tâm trạng của mình nhưng gợi lại đến những kỷ niệm của nhiều người khác mà có người vì quá yêu thích nên đã gọi là những “bài thơ để đời”. Có thể có cả những người xuất thân từ Trường Võ Bị Quốc Gia nữa. Có người không tin là nữ thi sĩ Lệ Khánh không có dung nhan khiêm nhường như bà đã tả trong thơ? Theo như nhà văn Hồ Nam thì: “Ðiều làm mọi người kinh ngạc là Lệ Khánh xuất bản thơ với tựa đề “Em là gái trời bắt xấu” nhưng thật ra tác giả năm tập thơ mang nhan đề như trên lại là một cô gái Huế xinh đẹp từng làm nhiều chàng trai đất Quảng ngẩn ngơ chứ chẳng xấu một chút nào cả…” Những mối tình của nữ thi sĩ ra sao mà có người như La Ngạc Thụy đã cho rằng vào những năm thập kỷ 60, trên diễn đàn văn nghệ xuất hiện một nhà thơ gây xôn xao dư luận có thể nói là ngang tầm với hiện tượng TTKH là nhà thơ Lệ Khánh? Theo nhà văn Hồ Nam thì: “người ta đồn rằng người tình đầu của Lệ Khánh là nhà thơ Nhất Tuấn nhưng Nhất Tuấn không xác nhận cũng chẳng phủ nhận tin đồn chỉ im lặng. Nhưng sự thực không phải như lời đồn đại. Người tình đầu thấp thoáng những khổ đau ly biệt dở dang trong thơ Lệ Khánh chính là Phạm H.Th., sinh viên sĩ quan khóa 17 Võ bị Ðà Lạt sau khi mãn khóa đã được thuyên chuyển về binh chủng Biệt Ðộng Quân. Mối tình dang dở gây ra cho Lệ Khánh khổ đau vì TH. đã lập gia đình với một người bạn gái của cô khiến cho Lệ Khánh có rất nhiều bài thơ về mối tình sướt mướt này. Một thời gian sau khi chia tay với người tình đầu Lệ Khánh có một mối tình với nhà văn nhà thơ Mũ Ðỏ Hoàng Ngọc Liên. Thời gian đó Hoàng Ngọc Liên thường hay bay đi bay lại Sài Gòn – Ðà Lạt hàng tuần và khi ông viết bài thơ “Kỷ niệm sinh nhật em” thì Lệ Khánh có ngay bài “Kỷ niệm sinh nhật Anh” để đáp lại. Hai người cặp nhau một thời gian dài nhưng thời gian này HNL rất bay bướm có nhiều bồ nhí ở Sài Gòn, một ngày kia Lệ Khánh bắt gặp tại trận nên chia tay nhau.
Sau đó người ta lại thấy Lệ Khánh có quan hệ tình cảm với nhà thơ kiêm nhạc sĩ Thục Vũ (Trung tá Vũ Văn Sâm) một trong những nhà thơ quân đội khá nổi tiếng và cuộc tình này khá bền bỉ, bền tới khi Thục Vũ rời khỏi cõi hồng trần vẫn chưa dứt.” Nhạc sĩ Thục Vũ đã phổ bài thơ của Lệ Khánh, bài “Tình người hậu tuyến” rất nổi tiếng. Có lẽ vì tâm đầu ý hợp chăng? Cô công chức Tòa hành chánh Thị xã Ðà Lạt sau đổi về Tòa Tỉnh Gia Ðịnh, có những câu thơ đơn sơ được chuyển thành cung bậc âm thanh đi thẳng vào tâm tư thính giả:
“Hôm nay trời vào thu
Cuộc đời tình ái của Lệ Khánh nhiều truân chuyên bi lụy nên có người đã ví TTKH như Ðạm Tiên và Lệ Khánh như Thúy Kiều. Lệ Khánh yêu hết mình và đã để lại trong tâm những vết thương để có một hồn thơ thích hợp với khuôn trời thơ mộng mù sương Ðà Lạt.Tình yêu đã tạo thành những câu thơ mà độc giả, dù đương thời hay về sau này, cũng cảm và thấy được nỗi bi thương của một người không may có những mối tình không bao giờ trọn vẹn. Thơ tình buồn thường hay gây ấn tượng cho người yêu thơ từ thuở xa xưa đến giờ… Vào thời kỳ giữa thập niên 60, lúc Lệ Khánh bắt đầu nổi tiếng, tôi còn là một cậu học sinh trung học. Dù đang ngồi ghế nhà trường nhưng vẫn hay thường mộng mơ vói qua ngoài cửa lớp. Những bài thơ của tuổi học trò ngây thơ, của những thời xôn xao mới lớn hay đăng trên những phụ trang văn học của các tờ nhật báo được chúng tôi cắt dán hoặc chép lại trong những cuốn sổ bìa cứng và cứ thế suốt mấy năm trung học đã thành cuốn sách gối đầu giường vô cùng trân quí. Ở những bài thơ, mường tượng những người tình, có khi chỉ là thoáng qua, có khi chỉ là ảo tưởng, nhưng cũng tạo trong tâm tư những kỷ niệm khó quên. Giở lại những trang thơ ấy, là cảm giác đi về một chốn nào đã xa nhưng lại thật gần gũi. Ở đó, có tuổi trẻ, có kỷ niệm. Với những nữ sinh, có lẽ thơ của Lệ Khánh có sức lôi cuốn và hấp dẫn nhiều hơn. Và, 5 tập thơ “Em là gái trời bắt xấu” cùng 2 tập “Vòng tay nào cho em” và “Nói với người yêu” đã có số lượng độc giả khổng lồ là chính nhờ ở thành phần người đọc này. Lệ Khánh có những người tình là lính nên ở trong thời buổi chiến tranh những cuộc tình ấy đầy chia ly và không có đoạn kết là chuyện dĩ nhiên. Ðề tài của tất cả 7 tập thơ đều nhất quán là chuyện lòng của người thiếu nữ thanh tân, lúc nào cũng đầy những khát vọng yêu đương. Ngôn ngữ cũng không lạ, cũng chỉ loanh quanh chữ buồn, chữ nhớ, chữ tủi, chữ sầu, nhưng dung lượng tình cảm thì nói hoài chưa đủ và nhắc hoài chưa hả. Hình như thơ Lệ Khánh là để giành riêng cho những kẻ yêu nhau bởi vì khi trái tim mở rộng theo nhịp dồn dập thì cả đất trời cũng nhỏ và trong thế gian dường như chỉ chứa đựng duy nhất khuôn mặt người tình. Thơ như bị cuốn vào trong cơn cuồng vọng của Tình Yêu và ngôn ngữ của tình yêu ấy dù là ngôn ngữ của sáo mòn, của những điều mà trước đây ngàn năm và sau này triệu năm những tình nhân đã thuộc nằm lòng. Yêu nhau, người ta mới hiểu được cái mênh mông của ý tình qua ngôn ngữ mà người chưa yêu hoặc không yêu chẳng thể nào hiểu thấu. Tôi nghĩ thơ Lệ Khánh đã vượt qua được cái cửa ải của thời gian nhờ sự thành thực bày tỏ tấm lòng đang yêu và dù đau khổ vẫn trân quí những điều mình bày tỏ. Thơ “Em là con gái trời bắt xấu” không có một kỹ thuật nào để thăng hoa thi ca, không có một mới lạ được tìm kiếm nào cho con đường nghệ thuật. Những tập thơ vẫn là những phác họa chân thành của nỗi buồn tình yêu. Nhà thơ Ðinh Hùng cách nay hơn nửa thế kỷ đã nhận xét về Lệ Khánh và tới nay đã phần nào giải thích được tại sao “Em là gái trời bắt xấu” tới giờ này vẫn còn vị trí trong lòng những người yêu thi ca: “Qua những tập thơ kế tiếp nhau như những phân đoạn của một khúc trường ca chưa dứt, trước sau, Lệ Khánh vẫn chỉ là một con người duy nhất, với một tâm trạng duy nhất, một giọng nói duy nhất. Chính đó là điều đáng quí, đối với một người thơ thuộc lứa tuổi trẻ dễ dàng giao động dễ dàng chuyển mình theo theo cái nhịp sống nhiều biến thái bất ngờ hiện thời. Giữa cái vô thường của cuộc sống và của lòng người, Lệ Khánh đã dám có một lẽ sống thường trụ, một thái độ không đổi rời. Lẽ sống của riêng mình và thái độ cũng của riêng mình mặc cho dòng đời luân lưu và lòng người chuyển biến. Nếp sống tình cảm trước sau như một đó và thái độ chuyên nhất kia, có lẽ Lệ Khánh không dụng ý tạo nên nhưng từ trong bản chất người con gái “trời bắt xấu” không ngờ chính đó lại là cái “duyên thầm” riêng biệt của Lệ Khánh, cái phong phú khác người của kẻ làm thơ mà cũng chính là cái vẻ đẹp riêng của người thiếu nữ tự nhận mình là xấu.” Nguyễn Mạnh Trinh |
Sunday, September 15, 2013
Sài Gòn Một Thời Của Một Đời
Nguyễn Mạnh Trinh![]() Có nhiều bài thơ về Sài Gòn. Thành phố ấy, với nhiều người, là thánh địa của kỷ niệm. Với Nguyên Sa, là Tám Phố Sài Gòn, là “Sài Gòn đi rất chậm buổi chiều,” là “Sài Gòn phóng solex rất nhanh,” là “Sài Gòn ngồi thư viện rất ngoan,” là “Sài Gòn tối đi học một mình,” là “Sài Gòn cười đôi môi rất tròn,” là “Sài Gòn gối đầu trên cánh tay...” Với Quách Thoại buổi sáng, là “sáng nay tôi bước ra giữa thị thành / để nghe phố nói nỗi niềm mới lạ / tiếng xe tiếng còi tôi nghe đường xá / cả âm thanh của cuộc sống mọi người / một nụ cười chạy ẩn giữa môi tươi / trên tim nóng trong linh hồn tất cả /...” Với Trần Dạ Từ là buổi trưa, về Thị Nghè: “vẫn một mặt trời trên mỗi chúng ta / và mỗi chúng ta trên một bóng hình / tôi vô giác như mặt đường nhựa ẩm / trũng nỗi sầu đau náo nức lưu thông / mùa hạ đi qua tựa hồ giấc mộng / tôi chạy điên trong một bánh xe tròn / và đứa trẻ hít còi người đàn bà bước xuống / ôi chiếc cầu, ôi sở thú. ôi giòng sông /...” Với Cung Trầm Tưởng, là mưa, là “mưa rơi đêm lạnh Sài Gòn / mưa hay trời khóc đêm tròn tuổi tôi / mưa hay trời cũng thế thôi / đời nay biển lạnh mai bồi đất hoang/...” Với Luân Hoán, là ngồi quán, là “ngồi La Pagode ngắm người / thấy em nhức nhối nói cười lượn qua / mini-jupe trắng nõn nà / vàng thu gió lộng chiều sa gót giày / ngẩn theo tóc, tuyệt vời bay / hồn thơ thức mộng trọn ngày bình yên.” Với Bùi Chí Vinh, là ngày bãi trường mùa hạ “những chiếc giỏ xe chở đầy hoa phượng / em chở mùa hè của tôi đi đâu / chùm phượng vĩ là tuổi tôi mười tám / tuổi thơ ngây khờ dại mối tình đầu...”...
Và với nhiều thi sĩ khác, Sài Gòn là phố cây xanh, là đêm cúp điện, là chiều mưa giọt, là trưa nắng đỏ. Ôi Sài Gòn, của cõi thơ không cùng, của những chân trời thi ca bao la, của những trái tim lúc nào cũng dồn dập nhịp thở của tháng ngày tuy náo động nhưng chẳng thể nào quên.
Với riêng tôi, Sài Gòn là muôn vàn kỷ niệm. Là những con đường quen thân, nhắc lại một thuở ấu thời. Là ngôi trường Chu văn An, nơi tôi miệt mài suốt bảy năm trung học. Là trường Khoa Học, là trường Luật trước khi vào lính. Là cổng Phi Long vào phi trường Tân Sơn Nhứt khi vừa nhập ngũ. Là những mơ mộng tuổi trẻ, lúc vừa bước vào đời sống quân đội trong một đất nước đang trong tình trạng chiến tranh. Buổi trưa, nằm dài trên sân cỏ mượt nhìn lên nóc nhà thờ Ngã Sáu, dưới bóng cây dầu cao vút, nghĩ về tương lai, nhìn theo những sợi mây bay qua. Nghe xôn xao trong lòng những sợi nắng lung linh. Ôi, thuở còn đi học, mấy ai tiên đoán được số mệnh mình. Mây bay đi, như đời trôi qua.
“nằm trên cỏ nhìn trời cao Sài Gòn những mùa thu. Có những con đường xôn xao áo lụa. Có những buổi tan học nhìn tà áo trắng mà mơ ước vu vơ. Để đêm về, trên trang vở học trò, vẽ bâng quơ đôi mắt ai, mái tóc ai:
“Thành phố ấy, xôn xao tà áo trắng Sài Gòn của một thời mặc áo lính. Khi ở xứ biên trấn xa xôi, nhớ về thành phố với người thương, với phố quen, trên máy bay lượn vòng thành phố, nghe như mình đã trở về quê hương mình. Khi đổi về đơn vị ở phi trường Biên Hòa, mỗi buổi sáng tinh sương ghé phở Tàu Bay, ăn tô phở đầu ngày trong cái không khí trong veo buổi sớm, nay nhớ lại còn trong dư vị miếng ăn ngon của một thời tuổi trẻ. Năm 1968, lệnh tổng động viên nên vào lính nhập khoá với những người cùng trang lứa. Lúc ấy, với hăng hái của người nhập cuộc, hiểu được bổn phận của một công dân thi hành nghĩa vụ quân sự với đất nước. Lúc ấy, mắt trong veo và tâm hồn như tờ giấy trắng:
“Bọn ta ba trăm thằng tuổi trẻ Rồi, vận nước đến thời, gia đình ly tán, đi vào trại tù, nếm đủ những cay đắng của đời cải tạo. Khi trở về, Sài Gòn, cảnh vẫn cũ nhưng người xưa đã khác. Như Từ Thức về trần, cả một thế thời thay đổi. Người về, từ trại tù nhỏ sang qua nhà giam lớn, vẫn những con mắt công an cú vọ rập rình, vẫn những lý lịch trích dọc, trích ngang đeo đuổi. Tạm trú, tạm ngụ, ở chính ngôi nhà của mình. Nơi sẽ định cư của những người tù cải tạo, là những vùng kinh tế mới xa xăm, những nơi chốn đầy ải của ngày tuyệt lộ. Trở về xóm cũ, làm người lạ mặt:
“Đỏ bầm mặt nhựt cơn mê Về trình diện công an khu vực, nhìn nụ cười gằn vừa mỉa mai vừa soi mói, nhìn đôi mắt cú đóng dấu vào một ngày thất thế của người bại binh, ôi đau xót cho một đời ngã ngựa. Ở Sài Gòn những ngày giặc chiếm, vẫn còn âm hưởng của một cuộc chiến chưa tàn. Trên chuyến xe bus nội ô, một người lính què dẫn dắt người lính mù hát những bài hát ngày xưa ngày còn chiến đấu dưới cờ. Quân lực VNCH là tập thể của những người lính tin tưởng vào công việc làm của mình. Dù thua trận nhưng họ không muốn làm hèn binh nhục tướng.
“trang lịch sử đã dầy thêm lớp bụi Ở Sài Gòn năm 1980, là những ngày tôi cựa quậy trong nan lồng Nghèo đói, bất công, đe dọa, bắt bớ, đủ thứ khổ nạn đổ lên đầu người dân nhất là những người được thả về từ trại tù. Mỗi ngày trình diện công an, rồi mỗi tuần, mỗi tháng nhưng áp lực thì càng ngày càng tăng. Tạm trú, từng tháng, từng ngày. Không có một chỗ nào ở thành phố cho các anh, người thua trận. Tôi, không có hộ khẩu, ở tạm trong nhà của mình. Rồi tham gia tổ chức vượt biên ở Bến Tre bị công an tỉnh này lên Sai Gòn tìm bắt. May là thoát được nên sau đó là phải sống lang thang đêm ngủ chỗ này tối ở chỗ khác. Những buổi tối trời mưa, đạp xe đi tìm chỗ tạm trú, mới thấy ngậm ngùi cho câu than thở trời đất bao la rộng lớn mà sao ta chẳng có chốn dung thân. Những buổi chiều nắng quái, đi trong thành phố, mới thấy cảm gíac của một kẻ cô đơn như con chuột đang cuống cuồng trong lồng giữa cơn mạt lộ. Thấy đi tới đâu cũng gặp những cặp mắt ngại ngùng của những người thân, từ chối thì không nỡ mà chứa chấp thì bị liên lụy nên tôi phải tìm một phương cách để cho qua đêm dài. Thuê phòng trọ hay khách sạn cực kỳ nguy hiểm, nên chỉ có một cách là trà trộn vào những người ngủ ngoài đường. Lúc ấy, ở Sài gòn đầy những người ngủ ở hè phố. Họ là những người từ kinh tế mới về chịu không kham sự khổ cực hay những người vượt biên hụt trở về nhà bị chiếm. Mà chỗ an toàn nhất là bến xe Ngã Bảy. Ở đây là đường ranh của nhiều phường nên chỉ có một quãng ngắn, ở chỗ này bố ráp thì chỗ kia vẫn bình thường như không có gì xảy ra. Tôi có xem một video của trung tâm Asia có ghi lại hình ảnh của nhạc sĩ Trúc Phương cũng hoàn cảnh phải ra xa cảng để ngủ qua đêm mà chạnh lòng. Thì ra, ở lúc ấy, có nhiều người chung cảnh ngộ, phải lang thang ngủ đầu đường xó chợ một cách bất đắc dĩ. Bao nhiêu chuyện trái tai gai mắt, công an lộng hành, bắt người không cần lý do, kinh tế thì lụn bại, ngăn sông cấm chợ, cả nước nghèo đói không đủ gạo ăn, kỹ nghệ trì trệ không sản xuất được gì đáng kể. Rồi chính sách phân biệt đối xử, giáo dục thì nhồi sọ, hồng nhiều hơn chuyên, thi cử tuyển chọn theo lý lịch hơn là thực tài, y tế thì thiếu thuốc men phương tiện và y sĩ trình độ kém lại làm việc tắc trách. Thật là một thời tệ mạt nhất trong lịch sử dân tộc ta. Ngủ ở bến xe Ngã Bảy, mướn cái chiếu 1 đồng, kiếm một chỗ qua đêm, tôi đã chứng kiến nhiều chuyện. Có những bà mẹ góp nhóp tiền bạc đi thăm con ở một trại tù nào đó, chờ xe ba bốn ngày, sống lang thang lếch thếch chờ đợi. Cũng có những người không nhà, nằm la liệt dưới mái hiên, sinh sống ăn ngủ và làm tình một cách thản nhiên như đang sống trong nhà mình. Cũng có những trai tứ chiếng, những gái giang hồ quanh quẩn kiếm ăn. Những anh lơ xe, những chị buôn hàng chuyến, những mối tình, hừng hực xác thịt cứ diễn ra hàng đêm. Rồi những đêm mưa gió, ướt át, những tiếng chửi than trời trách đất cứ dòn dã. Hình như, ở gần nỗi khổ, tâm hồn họ bị chai sạn đi. Công an từ phường này qua phường kia luôn luôn bố ráp nhưng như một trò chơi cút bắt. Áo vàng mũ cối đi qua, chỉ ít lâu sau là đâu vẫn đấy.
“... hè phố rác lạc loài hoa dại Ở một đất nước vào thời kỳ mà cây cột đèn nếu đi được cũng muốn vượt biển, thì còn con đường nào khác hơn là thách đố với định mệnh. Những lần sửa soạn ra đi, tự nhủ hãy đi một vòng thành phố thân yêu để rồi vĩnh biệt không còn gặp lại. Những khúc sông, những cây cầu, những dãy phố, mỗi mỗi đều nhắc đến kỷ niệm và khi sắp sửa ra đi như mất mát một phần đời sống mình. Có buổi tối, đi trong mưa, để tưởng nhớ lại lúc xa xưa, khi bềnh bồng trong cảm giác lãng mạn của một người đi tìm vần thơ. Mai ta đi xa. Thôi giã từ thành phố. Lòng đau như cắt trong lúc giã từ
“ta thắp nến đọc hoài trang sách kể Bây giờ, nhiều người trở lại nói thành phố đã đổi khác. Hết rồi, những con đường cũ, những ngõ hẻm xưa. Hết rồi, những tâm tình thuở nào, của một thời trong một đời người. Tôi, có lúc đọc những bài viết cũ, ngắm lại những hình ảnh xưa, lại nhói đau như vừa đánh mất một điều gì trân quí. Thôi vĩnh biệt sài Gòn, tiếng kêu thảng thốt của người vừa đánh mất một phần đời sống mình. Nguyễn Mạnh Trinh |