Cô Đơn
Tác giả: Nguyễn Ánh 9
Tiếng hát: Thanh Chi
Đệm piano: Minh Ngọc
Click on the video below to play!
Dạ khúc là tên một bài hát của nhạc sĩ Nguyễn Văn Quỳ, cùng với bài Dạ khúc của Nguyễn Mỹ Ca là hai bản dạ khúc nổi tiếng nhất Việt Nam. Dạ khúc Nguyễn Văn Quỳ thuộc thể loại Nhạc tiền chiến, được sáng tác vào khoảng năm 1950. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Quỳ sinh năm 1925 tại Hà Nội. Ông chuyên viết những bản sonate giành cho giàn nhạc giao hưởng, còn lại có 4 ca khúc nổi tiếng: Nhớ Trăng Huyền Xưa, Dạ Khúc, Bóng Chiều, Chiều Cô Thôn. Sau đây mời các bạn nghe Dạ khúc qua giọng hát của chị Châu Chi cùng với tiếng đàn dương cầm của chị Minh Ngọc, người quay phim Châu Cay:
Dạ khúc - Nguyễn Văn Quỳ
Đêm về trong bước phong sương, lùa gió phũ phàng
Đêm về trên bến cô liêu mờ xóa chiều tà
Còn tiếc khi hoa lòng tươi sắc dương
Nhưng ngày xanh thắm mau phai tàn áng mây vàng |
![]() Em hãy ngồi xuống đây Lặng yên trên cát ướt Nghe tiếng sóng thì thầm Trong không gian thinh lặng Em hãy ngồi xuống đây Lặng yên và lặng yên Nghe lời biển nhịp nhàng Êm êm như mẹ ru Em hãy ngồi xuống đây Nghe sóng vỗ rì rào Kể chuyện sóng lang thang Rong chơi trên bãi vắng Em hãy ngồi với ta Nhìn nắng vàng lướt sóng Theo dõi cánh chim âu Thả trôi đi phiền muộn Nghe trong từng nhịp thở Nhạc điệu của tâm yên Em hãy ngồi cùng ta Nghe sóng biển... thì thầm ! Châu Chi Sunset Beach Cali, Tháng Ba, 2014 |
Châu ChiDì nói ngày tôi sinh ra trời mưa rất lớn và mưa đã ròng rã đổ xuống suốt cả mấy ngày trước đó. Tiếng khóc oa oa chào đời của tôi, ngoài ba mạ ra, thì không được gia đình hoan nghênh cho lắm. Vốn dĩ ba tôi là con trai độc nhất nên ông bà đã ước ao có được một đứa cháu trai để nối dõi tông đường. Cũng không trách được ông bà vì quả thật ông bà cũng đã rộng lượng lắm rồi. Cháu đầu lòng đã là một bé gái, chính vì thế mà sự có mặt của tôi như một cái gai xốn mắt cho người trong nhà. Cũng oan cho tôi, thật sự mà nói tôi có muốn như thế đâu. Bà nội đặt tên cho tôi là Lài, Nguyễn thị Lài, vì cho dù không thích sự hiện diện của tôi cho lắm, tôi vẫn là máu mủ của bà, mà bà lại rất thích hoa Lài, bất chấp sự phản đối của ba mạ tôi. Bà nội là người Tàu lai. Bố của bà nội là người Trung Hoa, vì một lý do nào không rõ, ông cố lưu lạc về Huế gặp được bà cố bên giòng Hương Giang trữ tình lãng mạn và quyết định định cư luôn tại đất Thần Kinh. Trái hẳn với chị tôi, nét thanh tú, xinh xắn, tôi lại không có một nét nào thanh thanh như mạ, hay cao lớn như ông nội và ba. Dáng tôi cục mịch, tóc lưa thưa, mắt hí, người bé xíu, có chút giống bà nội và ông cố. Còn nhớ trong album của gia đình, còn những tấm hình chụp chung lúc nhỏ với chị, hai chị em cùng mặc áo dài, trông chị xinh xắn đáng yêu bao nhiêu với mái tóc đen mướt, nụ cười có má lúm đồng tiền, thì tôi có một dáng dấp phản ngược lại với nét thanh tú của chị, tóc thì ít, bụng thì cứ to phình ra - theo lời của mạ, tôi bị chứng hư tì - Bà nội thản nhiên gọi tôi là Bé "Xấu" vì tôi xấu một cách đặc biệt. Và tên Lài Xấu theo tôi từ đấy. Nghĩ cho cùng thì cũng chẳng oan uổng gì cho lắm với cái biệt danh của bà nội đặt cho. Bạn bè đến nhà chơi, nghe thế cũng bắt chước gọi theo, âm hưởng "Lài Xấu" khác biệt tùy theo mức độ thân sơ. Lâu ngày thành quen và dù muốn dù không, tôi bắt buộc phải chấp nhận số phận trời bắt xấu cùa mình. Sau đó ba nhận một công việc ở Bến Tre và đưa cả gia đình vào Nam sinh sống. Vì chữ hiếu mạ tôi phải cắn răng để chị tôi ở lại với ông bà nội vì biết ông bà rất thuơng chị. Trong trí óc thơ dại của mình, tôi rất vui mừng khi ra khỏi nhà Nội dù tôi biết ông nội cũng rất thương tôi. Còn nhớ đêm trước ngày đi, ông đã ôm tôi vào lòng và nói "Bé Xấu của ôn, nhớ năng viết thư về cho ôn mệ, hỉ". Tôi vui mừng vì nhiều lẽ. Thứ nhất, được đi đến một nơi chưa bao giờ biết, để có thể tự hào nói với các bạn nhỏ của mình "tao sắp vô Saigon", vì tôi biết sâu trong thâm tâm có khá nhiều bạn rất ước ao được vào Sài Gòn. Thứ hai, là tôi thoát được cái thời tiết khắc nghiệt của xứ Huế, mưa chi mà mưa ròng mưa rã cả sáu tháng, mưa cho thúi cả đất (mà tuổi thơ tôi đã phải bó gối trong nhà nhìn mưa rơi "thúi đất" đó hết ngày này sang ngày khác). Thứ nữa là sau này khi đi ra ngoài với gia đình, mọi người sẽ không nhìn thấy rõ sự khác biệt giữa chị tôi và tôi vì chị đã ở lại vói ông bà. Thực tình thì tôi không có ý ghét chị mình. Trái lại tôi biết sẽ rất nhớ chị vì không có ai nhường nhịn mình nữa khi xa chị. Tôi đinh ninh rằng, khi rời khỏi nơi tôi sinh ra, xứ Huế buồn muôn thuở đó, thì tôi có thể trở thành một con người khác, người ta sẽ không biết đến cái biệt danh "Xấu" mà bà nội đã đặt cho tôi. Nhưng tôi đã lầm to khi có cái suy nghĩ rất ngây thơ và ngờ nghệch đó. Vì thật ra chữ "Xấu" mà tôi ghét đã in hằn trên mặt của mình như cái dấu ấn mà một người tù khổ sai ngày xưa phải chấp nhận, cái hình phạt dành cho, từ một thanh sắt rèn từ lửa nóng in trên trán của họ và sẽ theo họ suốt cả cuộc đời. Nhưng bây giờ, sau bao nhiêu thăng trầm của cuộc đời, đã biết rõ một điều, người đến với người không chỉ bằng nhan sắc bên ngoài, mà là bằng tình cảm bồi đắp qua năm tháng, bằng sự chân thật của chính mình, là cứ hãy trải lòng ra cho dù có va vấp. Và thôi thì cứ tự an ủi lấy mình khi suy gẫm về câu nói của người xưa để khỏi buồn phiền mỗi khi soi mình trong gương: "Cái nết đánh chết cái đẹp!" (chắc hẳn lời nói này cũng bắt nguồn từ một người, cũng xấu na ná giống như tôi!). Lầu Xái (Châu Chi) |
Mỗi lần tham dự Đại Hội Không Quân của các anh, tiết mục xướng tên tưởng niệm các đồng đội đã hy sinh bao giờ cũng làm tôi xúc động.
Trong RU-44 vừa qua, được biết, theo sáng kiến của anh Hùng Nhà Thờ, tiết mục tưởng niệm này đã được tổ chức một cách trang trọng hơn. Khi tên của mỗi người bạn qua đời được xướng lên, thì có một chị thắp một ngọn nến cắm lên bàn thờ tưởng niệm đặt trên sân khấu. Từng chị, rồi từng chị, bước đi với ánh nến lung linh trên tay, trang trọng thắp nến tưởng nhớ các bạn của chồng mình, làm cho không gian như chùng lại. Năm này, ngoài những đồng đội đã hy sinh trong trận tuyến năm xưa, còn có thêm những bạn bè vừa mới đáp lên chuyến tàu có tên "Vĩnh Biệt". Khi tên anh Lý Chỉnh được xướng lên, lòng tôi bồi hồi và buồn bã khôn tả, bởi vì chúng tôi đã may mắn gặp anh vài tháng trước khi anh rời bỏ cõi đời.
Lần ấy, anh chị Trương văn Tập có tâm sự với chúng tôi là vì sức khỏe anh Chỉnh đang suy sụp nên anh chị Tập muốn sang thăm anh chị Lý Chỉnh. Vì thế chúng tôi quyết định tháp tùng với anh chị Tập sang Dallas.
Cởi mở, chu đáo, thân thiện, vui tính, có óc khôi hài, năng động, nhiệt tình, là những đặc tính nổi bật của anh Lý Chỉnh. Anh luôn làm mọi người cười thoải mái bằng những mẫu chuyện vui của anh. Sự tiếp đãi ân cần của anh chị Lý Chỉnh suốt thời gian chúng tôi lưu lại ở Dallas đã là một kỷ niệm khó quên. Sau đó, với sự đồng ý của chị Lý Chỉnh, anh Chánh, một người bạn của anh chị, đã chở anh Chỉnh tháp tùng cùng chúng tôi sang Austin. Anh chị Huỳnh Bá Thanh đã sửa soạn đón tiếp phái đoàn chúng tôi rất chu đáo. Buổi chiều hôm đó, chúng tôi kéo nhau đến nhà anh chị Trường để cùng hội ngộ với anh chị Hiệp. Buổi tiệc thật vui, anh Chỉnh nói cười huyên thuyên với bạn bè, không ai có thể tưởng tượng được anh đang ở giai đoạn cuối cùng của cuộc đời. Tấm hình chụp được, anh đang ôm vào lòng những chai rượu mà bạn anh đã uống cạn, với nụ cười thật tươi.
Trong suốt buổi tiệc, dù anh không nếm qua một giọt rượu nào, nhưng qua tấm ảnh, thấy như anh đang vui say, không say vì rượu, mà say vì được vui với bạn bè! Tiệc tàn, anh nào cũng say khướt, có anh ôm hôn bạn mình, có anh ôm chó vào lòng, miệng lẩm bẩm "oh, my dear, my dear"... Chỉ có anh Chỉnh là tỉnh táo, dìu từng "thằng bạn thân thương" vào phòng. Về khuya, khi các bạn đã ngủ say, anh còn đi vào từng phòng xem chừng bạn có ngủ yên giấc không.
Hồi tưởng lại, tôi vẫn còn nhớ rõ nét mặt tươi cười hớn hở của anh khi ngồi với bạn bè, nhìn bạn mình cụng ly cười nói, có lẽ anh linh tính biết được đây là lần gặp sau cùng nên anh muốn tận hưởng tuyệt đối thời gian bên cạnh bạn của anh chăng? Nhớ khi chia tay, tôi còn thực lòng hẹn với anh chị Chỉnh sẽ gặp lại nhau RU sắp tới ở California. Còn nhớ anh đã gật đầu với nụ cười thật tươi, mà trời ơi, làm sao tôi có thể đoán được đó sẽ là lần gặp gỡ cuối cùng với anh?
Năm nay, được biết, sau lễ giỗ thứ năm của anh, theo lời anh dặn dò, chị Chỉnh đem tro cốt của anh về Việt Nam, một nửa rải lên mộ của mẹ, một nửa rải lên mộ cha. Ôi cái tình của anh Lý Chỉnh, luôn luôn trọn vẹn, trọn tình, trọn hiếu cho dẫu đã ra đi!
Sắp tới đây, trong ngày Đại Hội kỷ niệm 45 năm của các anh, tôi sẽ xin thắp thêm ngọn nến trong lòng mình để tưởng nhớ anh Lý Chỉnh, một ngọn nến cho anh Trần Đình Quế, một ngọn nến cho anh Võ Đoàn Hồng, một ngọn nến cho anh Nguyễn Đình Chiểu, một ngọn nến cho anh Thái Nguyên Lân. Và xin Đấng Tối Cao đem thêm sức mạnh và bình an cho các chị.
Nhân đây, xin tặng những đóa hồng tuyệt đẹp cho tình bạn của các anh nói chung, cho các anh Thụy, anh Giang, anh Hùng Nhà Thờ, anh Hoa, anh Biên nói riêng, đã không quản ngại đường xá xa xôi, lái xe từ California sang Texas viếng anh Hồng ở chùa Linh Sơn và thăm hỏi chị Hồng. Mong tình bạn các anh luôn miên viễn chắp cánh theo thời gian để có thể hội ngộ với nhau trong những lần RU K7/68, đặc biệt lần RU-45 sắp tới.
Buổi sáng mùa thu, trời bắt đầu se lạnh. Quấn cái khăn len vào cổ, tôi chuẩn bị lái xe đi thăm Mẹ. Đường tới nhà mẹ trồng nhiều cây khuynh diệp, một trong những loại cây Mẹ tôi rất thích. Còn nhớ cứ mỗi lần bị bịnh là Mẹ cứ đi hái sẵn lá khuynh diệp, lá sả, lá chanh, nấu cho tôi một nồi xông vì mẹ biết tôi rất thích được xông với nồi nước xông Mẹ nấu. Mùi lá khuynh diệp quyện vào với lá chanh,lá sả, cộng với tình yêu của Mẹ làm cho tôi cảm thấy khỏe ngay sau đó.
Con đường thật là êm ả với những hàng dây leo màu tím sẫm ngay ngoài cổng vào. Gió nhẹ cuốn theo những chiếc lá bắt đầu đổi màu làm tôi nhớ mùa thu ở Canada với những rừng cây màu vàng rực rỡ trong nắng. Sau chuyến du lịch tôi đã đem về thật nhiều hình chụp những rừng lá vàng cho Mẹ xem, và đã kể cho Mẹ nghe những mẫu chuyện đường xa vì biết Mẹ không thích đi đâu xa khỏi thành phố của Mẹ. Nhớ Mẹ thường ngồi yên, chăm chú nghe tôi huyên thuyên.
Nhà Mẹ ở bên cạnh một giáo đường, xung quanh là cỏ xanh rì. Tiếng chuông nhà thờ thường đổ vang vang mỗi cuối tuần cùng với những tiếng ca lảnh lót của ca đoàn làm không khí rộn rã hẳn lên trong những ngày cuối năm. Tôi yêu cái không khí vừa tịch mịch vừa trang nghiêm ấy, tịch mịch nhưng không làm tôi sợ hãi vì hòa theo tiếng chuông đổ và tiếng nhạc là những tiếng cầu kinh của giáo dân, đã mang lại cho tôi một sự bình an khó tả. Tôi nghĩ chắc Mẹ cũng cảm nhận được điều này vì bây giờ Mẹ đã đến một nơi rất bình an, dứt bỏ những muộn phiền, những âu lo để chỉ chuyên tâm thờ phụng Thượng Đế của Mẹ.
Tháng 11 của lễ Tạ Ơn là tháng tôi buồn nhất vì nhớ mẹ. Nỗi buồn vẫn bóp thắt trái tim trong nỗi nhớ nhung này, và chưa bao giờ tôi thấm thía như thế câu nói "Nghìn thu vĩnh biệt" đến như vậy. Thanksgiving không có Mẹ, Christmas không có Mẹ, cả Tết Việt Nam cũng vậy. Trong một thời gian khá lâu chúng tôi như những đàn chim lạc bầy, thu lu lại trong mỗi góc nhỏ của mình mà tiếc nuối những tháng ngày đã qua lúc còn có Mẹ bên cạnh.
Còn nhớ thời gian sau chiến tranh, cuộc sống đảo lộn, người người hoang mang không thể định hướng được cuộc đời của mình, tinh thần tuột dốc, nhưng Mẹ lại nhận được ơn của Chúa Mẹ nên đã lặng lặng nghe theo Đức tin của riêng mình. Nhớ tôi đã có lần tâm sự với bạn, rằng Saint Thomas, nhà thờ Ba Chuông, là nơi tôi có những kỹ niệm rất thiêng liêng, mà nếu có nhắc lại chắc sẽ làm tôi rơi nước mắt. Đó là nơi Me tôi được Cha làm phép rửa tội lần đầu mà Ba tôi không hề hay biết. Dù biết rằng sau đó Ba sẽ nổi trận lôi đình, nhưng Mẹ tôi vẫn cương quyết làm theo ý muốn của mình. Từ đó, nhà thờ Saint Thomas đã trở thành nơi nương thân cho mẹ tôi về tinh thần. Tôi không chống đối điều này, vui mừng và âm thầm ủng hộ cho Mẹ là đằng khác vì biết từ đây Mẹ sẽ có nhiều bình an hơn, giải thóat được phần nào những ưu tư và khó nhọc của cuộc sống đầy biến động sau thời kỳ chiến tranh chấm dứt. Tôi đã nhiều lần nói chuyện với Ba về Đức Tin mới của mẹ để mong Ba ủng hộ Mẹ và ba tôi dần dà cũng xuôi tai, tuy không nói ra, nhung tôi biết người cũng hiểu được nhờ có Đức Tin mà Mẹ đã vượt qua được những giai đọan gian nan của cuộc đời và có được bình an trong tâm hồn.
Những ngày tháng về sau khi định cư ở Hoa Kỳ, mẹ tôi hầu như hướng trọn tình cảm của mình cho đấng tối cao. Mẹ thường đi bộ đến nhà thờ mỗi ngày để cầu nguyện, không những cho chính những con cháu trong gia đình của mẹ, mà còn cho những người thân quen bạn bè, những linh hồn mồ côi,những chiến sỹ trận vong. Và tôi cũng đã có nhiều lần theo bước chân của mẹ, tìm đến nhà thờ để xin ơn trên ban phép lành an cho mẹ.
Đối với tôi mẹ như một người bạn, vì mẹ và tôi đã chia sẻ với nhau rất nhiều chuyện trong cuộc sống thường ngày. Vào sở làm , mỗi ngày tôi đều tranh thủ thì giờ gọi về nói chuyện với mẹ. Ngày nào không gọi được mẹ vì bận rộn, tôi cảm thấy như mình thiếu đi một thứ gì... lòng không thấy an. Thói quen thật là đáng sợ, vì nó đã làm tôi khốn khổ trong một thời gian dài sau khi Mẹ mất. Tôi như bị hụt hẫng chơi vơi giữa cuộc sống thường nhật, lúc nào cũng muốn tìm một chỗ vắng vẻ, ngồi thu lu lại mà khóc.
Vâng, Mẹ tôi đã đột ngột qua đời sau con trụy tim, Không có ai trong chúng tôi được nghe Mẹ trăn trối lời sau cùng. Không ai trong chúng tôi nghĩ rằng sẽ không còn được nhìn thấy mẹ trong những ngày lễ cuối năm - là dịp mà gia đình tập họp lại đông đủ. Không được ăn những chiếc bánh Huế làm bằng lá chuối thơm ngon mẹ làm - Tuy vậy sâu trong thâm tâm, tôi vẫn Tạ Ơn đấng tối cao đã đưa Mẹ đi rất bình an, không phải chịu đau đớn và không phải lê lếch thân xác rất lâu trong bịnh viện (điều mà Mẹ tôi thường lo sợ khi còn sống). Mẹ tôi thực sự đã chuẩn bị rất lâu và đã rất sẳn sàng cho chuyến đi xa này.
Con tàu đưa Mẹ đi đã rời bến suốt hai mùa Lễ Tạ Ơn, nhưng sao chúng tôi vẫn còn chòng chành đứng lại bên đường mà nhớ thương khôn xiết những ngày lễ cuối năm với mẹ, dù biết rằng thực sự chúng tôi nên mừng cho Mẹ, có được một đời sống bình an hơn khi bây giờ đã được trú ngụ trong nhà của Chúa.
Trong không khí ấm áp của mùa xuân, xin dâng lời cầu nguyện cho tất cả mọi người thân thuộc, cho bạn bè thân hữu xa gần, được mọi sự bình an và dồi dào sức khỏe. Và xin thân ái tặng những bông hồng cho những ai còn có Mẹ.