Hồ viết Yên
Mấy ngày hôm nay Nam California bị cháy. Cháy dữ dội, lửa khói rực Trời. Hơn 2,000 lính cứu hoả, trực thăng, máy bay đã được điều động, nhưng không thể kiềm chế được ngọn lửa. Tất cả các đài truyền hình chiếu hình ảnh cháy và nói về cháy từ ngày này qua ngày khác liên tục suốt ngày đêm. Cháy hừng hực, cháy phừng phừng, cháy luôn cả nhà dân và đe dọa mạng sống con người. Nhìn cảnh những gia đình thu xếp đồ đạc, lo chạy di tản, tránh thần hỏa thật quá tội nghiệp.
California có hai biến họa luôn luôn rình mò, chờ chực để tàn phá và làm khổ con người, đó là động đất và cháy rừng. Biết bao trận động đất lớn nhỏ đã xảy ra, biết bao cảnh cháy rừng thường xuyên tiêu hủy nhân mạng và tài sản con người hàng năm. Thêm vào đó, California cũng là một tiểu bang với nạn thất nghiệp cao, sưu cao thuế nặng, vật giá leo thang, nhà cửa mắc mỏ… Thế nhưng dân chúng vẫn không sao xa lánh hoặc rời bỏ mảnh đất này được. Nhiều người cho rằng thời tiết ấm áp quanh năm là lý do chính để mọi người đổ dồn về đây, bất chấp động đất, cháy rừng hay vật giá leo thang… Thật không hiểu nổi.
Nghĩ về lửa, về di tản, về thần hỏa, nó gợi cho tôi nhớ về quê hương vào những năm tháng cuối cùng. Cuối cùng của một đời quân nhân và cuối cùng của một đời binh nghiệp. Đối với tôi và các bạn đồng ngũ, chúng tôi đã được gì và mất gì? Chúng tôi không hối tiếc, không quản ngại hy sinh. Vì khi dấn thân là chúng tôi chấp nhận dâng hiến cuộc đời cho một lý tưởng… Chúng tôi hãnh diện với con đường mình đã chọn… Con đường dù tràn ngập chông gai và gập ghềnh với những viên đạn vô tình sẵn sàng xả nát tim gan nhưng đó là con đường đúng và oanh liệt…
Nghĩ về lửa, nó cũng đưa tôi về với quãng đời binh biến của 37 năm trước, của mùa hè đỏ lửa. Mùa của kinh hoàng tột độ, mùa của tang thương và nước mắt, mùa của hận thù, tận diệt giữa những con người mang cùng dòng máu. Hãy đọc Phan Nhật Nam qua đoản bút sau đây để thấy rằng lửa chiến tranh, lửa hận thù do con người tạo nên cũng tàn bạo và man rợ khôn cùng. Đoản bút này đã được diễn đọc trong một băng nhạc phát hành bởi trung tâm Asia với chủ đề về lính
“Đã từ lâu... Lâu lắm, người dân của ba miền đã qua những mùa hè trong cạn đáy khắc khoải để hy vọng tiếp tục đời sống với mơ ước chỉ đầy chén cơm.
Nhưng mùa Hè năm nay, 1972 tất cả hy vọng và mơ ước nhỏ nhoi tội nghiệp kia tan vỡ trong tận cùng kinh ngạc. Bao năm qua, chiến tranh đã quá nặng độ, chiến tranh quá dài, dài thê thảm, dài đau đớn tràn ngập. Người dân Việt mong mỏi đi qua thêm một mùa, một năm, chiến tranh lắng dịu và được sống sót. Nhưng, 30 tháng 3 ở Đông Hà, 24 tháng 4 ở Tân Cảnh, 7 tháng 4 ở An Lộc, 1 tháng 5 cho Huế và Quảng Trị... Hoài Ân, Tam Quan, Bồng Sơn, Bình Giả, Đất Đỏ... Toàn thể những địa danh nơi hốc núi, đầu rừng, cuối khe suối, tận con đường, tất cả đều bốc cháy, cháy hừng hực, cháy cực độ...
Mùa Hè 1972, trên thôn xóm và thị trấn của ba miền đồng bốc cháy một thứ lửa nhân tạo, nóng hơn, mạnh hơn, tàn khốc gấp ngàn lần, vạn lần khối lửa mặt trời sát mặt. Lửa ngùn ngụt. Lửa bừng bừng. Lửa kêu tiếng lớn đại pháo. Lửa lép bép nức nở thịt da người nung chín. Lửa kéo dài qua đêm. Lửa bốc khói mờ trời khi ngày sáng. Lửa gào chêm tiếng khóc của người. Lửa hốt hoảng khi cái chết chạm mặt. Lửa dậy mùi thây ma. Lửa tử khí trùng trùng giăng kín quê hương thê thảm khốn cùng.
Kinh khiếp hơn Ất Dậu, tàn khốc hơn Mậu Thân, cao hơn bão tố, phá nát hơn hồng thủy. Mùa Hè năm 1972- Mùa Hè máu. Mùa Hè của sự chết và tan vỡ toàn diện. Mùa Hè cuối đáy điêu linh. Dân tộc ta sao nỡ quá đọa đày!”.
Và nhớ lại những bản nhạc, những câu thơ về một thời binh biến đã được trình bày. Những hình ảnh cuộc chiến năm xưa lại từ từ hiện về trong tâm trí. Nó gợi cho tôi một kỷ niệm nho nhỏ, khó quên, và muốn được ghi lại cùng chia sẻ với các bạn trong đời bay bổng.
Hôm đó, sau một ngày bay từ sáng sớm tới chiều, đổ quân, tiếp tế, chở dân, chở lính vào ra Chơn Thành, An Lộc, Phước Long. Thành phố An Lộc đang bị Việt Cộng bao vây và chúng quyết chiếm cho bằng được thành phố huyết mạch này. Một thành phố phải chịu hàng ngàn quả đại pháo mỗi ngày, thêm vào đó là súng cối, súng cá nhân liên tiếp nhả đạn vào lòng thành phố. Nhưng các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà đã anh dũng chống trả mãnh liệt để bảo vệ từng tất đất và sinh mạng cho người dân.. Hình ảnh khói bay ngập trời và âm vang bom đạn cứ mãi xoay vần trong tâm trí tôi…Liệu mình có còn thấy được một ngày bình an trên quê hương chăng..
Tôi bước vào phòng hành quân ghi sổ bay, thì Th/tá Nguyễn văn Hoa trưởng phòng hành quân đến. Ông bảo tôi gặp văn thư phi đoàn và nhận sự vụ lệnh về trình diện Bộ Tư Lệnh KQ (BTLKQ). Tôi ngỡ ngàng không biết có chuyện gì đây! Lòng tôi hơi xôn xao và một chút lo âu đến với tôi, nhưng vì đang mệt và lo ghi sổ bay nên tôi không muốn hỏi Th/tá Hoa. Sau khi làm xong thủ tục, ghi chép xong báo cáo cho những công việc của phi hành đoàn thực hiện trong ngày. Tôi đến gặp anh văn thư phi đoàn (lúc đó hình như là Hạ sĩ quan Lê). Tôi nhận sự vụ lệnh đã được ký sẵn từ tay Lê để về trình diện BTLKQ.
Mấy tháng nay tình hình căng thẳng, Việt Cộng mở những trận đánh lớn từ Chơn Thành đến An Lộc qua Phước Long, rồi Ban Mê Thuộc, Komtum, Quảng Trị, những trận chiến thật tàn khốc. Hàng ngàn quả đạn bắn vào thành phố, số người chết đếm không biết là bao nhiêu. Chúng tôi thì bay mệt nghỉ, bay không ngày nghỉ ngơi, bay phờ cả người, ngày nào về cũng phải kiểm lại tàu coi bị bao nhiêu lỗ đạn để kịp sửa chữa cho phi vụ ngày mai. Ngoài những phi vụ tiếp tế, đổ quân còn chở hàng ngàn người dân từ An Lộc, Chơn Thành về Lai Khê để tránh bị Việt Cộng pháo kích giết hại. Vùng trách nhiệm của Phi đoàn 237 là vùng 3 chiến thuật, nhưng vì những phi đoàn khác chưa thành lập kịp nên PĐ237 phải gánh thêm trọng trách cho vùng 2 và vùng 4. Về sau lại thêm vùng 1. Chúng tôi phải thay phiên nhau đi biệt phái: biệt đội Pleiku, Cần Thơ và Đà Nẵng để hổ trợ, tiếp tế, chuyển quân cho các đơn vị bạn.
Mình đã làm gì? Có ai báo cáo? Để phải về trình diện BTLKQ. Tôi cố gắng kiểm điểm lại những phi vụ mình bay nhưng không tìm được lý do. Tôi định nói chuyện với Th/tá Hoa hy vọng anh cho biết, để chuẩn bị tinh thần. Thời gian gần đây, bay hành quân đỗ bộ, chở người, đồ tiếp tế cho quân bạn đều bị An Ninh Không Quân gài người theo dõi, (không biết đám an ninh này có dám lên máy bay vào vùng lữa đạn không? hay chỉ ở dưới đất rồi báo cáo… lấy điểm), dù đồ tiếp tế đó hay những người được đưa lên máy bay do quân bạn sắp xếp và yêu cầu. Nhưng bất kỳ lý do gì liên hệ đến phi vụ thì người trưởng phi cơ chịu trách nhiệm. Pilot ngoài sự đối đầu với tử thần trong các phi vụ hằng ngày để hoàn thành nhiệm vụ được giao phó thì còn bị quấy rầy với những chuyện không đâu…, làm mất hết ý chí chiến đấu của những người trai đã một lần thề và mang trên người Tổ Quốc, Danh dự, Trách Nhiệm và còn đang chấp nhận hy sinh để bảo vệ sự tự do của miền Nam Việt Nam. Nhiều lúc đau lòng mà phải từ chối sự yêu cầu của quân bạn mà đáng ra bằng mọi giá mình phải giúp họ.
Tôi nhớ lại chuyện người bạn tôi bị vợ chê là “Pilot gì! không bằng thằng lơ xe đò”, vì đưa chị ra gởi 1 người bạn của phi đoàn khác cho theo tàu về Cần Thơ thăm gia đình thì bị người bạn đó từ chối, vì sợ bị cho vào hồ sơ chở người bất hợp pháp. Lúc nghe chuyện đó tôi bất mãn với người bạn đã từ chối không cho vợ của bạn mình đi. Nhưng sau đó, thời gian không lâu thì chính bản thân tôi cũng bị mời lên phòng an ninh KQ Biên Hoà và được chính vị Th/tá trưởng phòng an ninh đích thân hạch hỏi. Sau khi nghe tôi trả lời qua loa thì vị Th/tá trưởng phòng có vẻ không bằng lòng và đưa ra trước mặt tôi tập hồ sơ khá dày và cho biết đã liệt kê rõ rệt và chi tiết những sinh hoạt của tôi: bay ở đâu, chở những gì, ăn ở đâu, uống gì, vào ngày nào, trong bàn có bao nhiêu người, tốn bao nhiêu tiền. Không chỉ ăn ngoài phố mà ngay khi ăn trong câu lạc bộ sĩ quan cũng được ghi rõ ràng vào hồ sơ. Vị trưởng phòng còn cho tôi biết là đã theo dõi liên tục trong nhiều tháng, và thêm nữa tất cả nhân viên trong phi đội của tôi đều đã bị gọi lên trình diện và lấy khẩu cung. Ngay cả phi đội phó của tôi là Tr/uý Nguyễn vĩnh Châu cũng bị gọi lên để hỏi về tôi. Khi tôi nghe đến Đại Bàng Châu cũng bị hỏi, thì tôi thấy không có gì để nói thêm vì ĐB Châu và tôi đi đâu gần như cũng có nhau, vì chúng tôi cùng phi đội và thân thiết với nhau.
Tới lúc đó tôi mới giựt mình, không biết mình theo Việt Cộng từ bao giờ mà bị đám an ninh KQ này chiếu cố kỹ như vậy! Tôi lúc đó là Phi Đội Trưởng, 23 tuổi, cấp bậc Đại Úy nên tôi cảm thấy bị sỉ nhục và bị xúc phạm đến danh dự và lý tưởng của tôi hơn là lời hăm doạ từ vị Th/Tá trưởng phòng an ninh và cũng từ đó mỗi lần nghe anh em trong phi đoàn hay những phi đoàn bạn bị mời lên phòng an ninh KQ thì tôi chỉ mỉm cười… và nghĩ tới 1 đám ăn không ngồi rồi, làm chuyện ruồi bu và thông cảm hơn cho những người bạn “Pilot không bằng thằng lơ xe đò” của tôi.
Đến khi Biên Hoà di tản, “cháy nhà thì lòi mặt chuột”. Những tên Việt Cộng nằm vùng trong căn cứ KQ Biên Hoà lộ bộ mặt thật, trong đó có tên Đại Uý coi cổng 1 và 2 của phi trường Biên Hoà cũng chường mặt nằm vùng ra. Thì ra an ninh KQ Biên Hoà chỉ giỏi quấy rầy cái đám “Pilot không bằng thằng lơ xe đò” này, mà ngày ngày phải đối đầu với những phi vụ vào sinh ra tử, nên không còn thì giờ hoặc không đủ khả năng để theo dõi những tên Việt Cộng nằm vùng, nằm ngay trong phi trường. Địch ở trong ta mà ta đếch biết…
Qua tới xứ tạm dung này, từ những ngày tháng vừa mới đến, tìm được nhau. ĐB Châu hay kéo vài anh em và lái xe từ Houston qua San Antonio để cùng tôi ăn uống, tán dóc cho hết 2 ngày cuối tuần rồi lại lái xe về. Tới cuối năm 1977 tôi qua California thì gặp lại Tr/uý Đoàn văn Lập đến từ xứ lạnh và gặp thêm nhiều bạn bè. Nhưng tôi và Thiên Bằng Lập lại tiếp tục cuộc vui như xưa, thường hẹn nhau ăn nhậu từ tối cho tới khi mặt trời mọc mới từ giã nhau. Thỉnh thoảng cũng có vài người bạn lính đồng minh ngày xưa trong binh chủng Thuỷ Quân Lục Chiến Mỹ cũng đến tham gia cuộc vui, cũng ăn rau răm, cũng xơi hột vịt lộn và cũng uống cho tới khi mặt Trời mọc mới về. Ăn uống và vui chơi với nhau từ lúc còn độc thân, chưa vợ, chưa con, cho đến nay con cái đã trưởng thành, đã hơn 30 mấy năm rồi mà chưa thấy một ông CIA hay một bà FBI nào mời lên hỏi tiền đâu mà ăn nhậu dữ vậy!!! Chắc họ đang dồn tâm trí lo theo dõi, tìm kiếm đám khủng bố, ăn cơm Mỹ mà mưu mô tìm cách giết hại dân Mỹ, hơn là theo dõi đám ăn nhậu vui chơi nhưng làm tròn bổn phận công dân, đóng thuế ê càng như chúng tôi.
Tôi đứng đó suy nghĩ một hồi lâu và thấy có hỏi Th/tá Hoa cũng chẳng ích lợi gì, thôi thì cứ mặc kệ, chuyện gì tới thì tới. Sống chết còn có số phần, huống chi bị phạt. Có bị lột lon thì mất lon, hay bị lột cánh bay thì khỏi đi bay, nhiều khi lại là điều tốt và tự nhiên mình được mang chữ “THỌ” trên lưng. Tôi lên xe về phòng lấy ít đồ cần thiết rồi lên đường về SàiGòn. Tối đó tôi rủ vài người bạn ra bến Bạch Đằng ngồi ăn uống lai rai và nói chuyện đời gần giới nghiêm mới về nhà.
Sáng hôm sau, tôi dậy sớm, quần áo chỉnh tề, vào căn cứ Tân Sơn Nhất trình diện BTLKQ. Ngạc nhiên đến thích thú khi tôi được biết BTLKQ cho tôi đi nghỉ dưỡng sức ở Đài Loan. Trái với những gì tôi đã suy nghĩ và lo lắng. Tôi sẽ tháp tùng theo phi hành đoàn C-47 qua Đài Loan để nhận chiếc C-47 vừa được overhaul xong. Tôi được giới thiệu với Tr/Tá Tuấn (nếu tôi nhớ tên không lầm) là người trưởng đoàn đưa chúng tôi đi Đài Loan và cũng là Trưởng Phi Cơ, Đ/uý Kim là Co-pilot, 1 Th/Tá là Navigator, 1 Tr/sĩ là Cơ Phi và 1 Tr/sĩ là Áp Tải. Tin vui làm tôi cảm thấy dể chịu và thỏai mái.
Chúng tôi nhận chỉ thị là sẽ đi Đài Loan bằng phi cơ quân sự nên nhiều việc cấp bách phải lo cho xong, nhất là thủ tục xuất ngoại và đổi tiền. Chuyến bay sẽ được thông báo. Tr/Tá Tuấn yêu cầu chúng tôi mỗi ngày vào đây gặp nhau, rồi cùng đi làm giấy tờ và cũng để cập nhật chuyến đi nếu có gì thay đổi.
Tình hình chiến sự mỗi ngày mỗi gia tăng dữ dội trên khắp các miền đất nước và lệnh của Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu cấm xuất ngoại cho mọi thành phần trong nước, kể cả quân đội, ngoại trừ trường hợp đặc biệt khi người già cần xuất ngoại để chữa bệnh. Thế là “nội bất xuất và ngoại bất nhập”. Chúng tôi không đi được, nhưng mỗi ngày phải vào trình diện BTLKQ cho đến khi có lệnh mới. Ngày ngày lên trình diện rồi về. 7 ngày trôi qua mà vẫn chưa có tin đi. Tôi bất đầu cảm thấy buồn chán. Tôi có ý định lên Biên Hoà chơi và thăm các bạn, nên sau khi được cho phép về, tôi liền phóng lên Biên Hoà. Khi bước vào phòng hành quân thì gặp ngay Th/tá Hoa.
Anh hỏi tôi: đi về rồi hả?
Tôi trả lời anh: chưa đi được vì lệnh cấm xuất ngoại của T.T. Thiệu.
Anh hỏi tôi: vậy Yên lên đây làm gì?
Tôi hỏi: Th/Tá cho tôi bay lại được không? Khi nào có lệnh đi, thì tôi sẽ về lại BTLKQ.
Anh Hoa quắc mắt nhìn tôi rồi nói: tụi nó bay thở không ra hơi, bị bắn tơi bời mỗi ngày mà chú đòi xin đi bay! Anh tiếp: chú đi về ngay! anh cho Quân Cảnh nhốt chú bây giờ.
Tôi gật gật đầu, đi qua câu lạc bộ phi đoàn chào thăm bạn bè, rồi ra xe trở về lại Sài Gòn. Trên đường về tôi nghĩ đến anh Hoa. Tôi biết anh thương tôi, không muốn tôi bị nguy hiểm nên hăm dọa, và đuổi tôi về, vì hơn ai hết anh rất rõ tình hình chiến trường.
Thêm cả tuần lễ nữa, cứ vào trình diện rồi lại về và cuối cùng thì lệnh của TrungTướng tư lệnh KQ Trần văn Minh cho chúng tôi đi bằng Air Việt Nam. Nhưng để để tránh cho sự dòm ngó của mấy nhà báo (hại), chúng tôi phải mặc đồ thường phục khi lên máy bay, và đem theo bộ đồ bay để mặc cho chuyến về. Tr/Tá Tuấn lại muốn tất cả phải mặc đồ vest để giữ thể diện cho quốc gia làm tôi phải chạy gấp qua tiệm may của ông Chú bên Thị Nghè nhờ may gấp cho bộ đồ vest.
Hai ngày sau thì chúng tôi lên phi trường dân sự Tân Sơn Nhất để đi Hồng Kông. Khi đi qua hàng rào an ninh và quan thuế, tôi bị nhiều cặp mắt nhìn tôi chăm chú như tôi mang đồ lậu trong người và giấy tờ của tôi được chuyền tay coi tới, coi lui.
Khi lên chiếc Boeing 727 của Air Việt Nam thì ngoài 6 người chúng tôi ra, tất cả là người ngoại quốc và có khỏang 20 hành khách trên chiếc Boeing này, tha hồ cho chúng tôi chọn chỗ ngồi. Tôi ngồi phía sau Tr/Tá Tuấn khoảng 3 hàng ghế, gần phòng lái. Sau khi máy bay cất cánh khá lâu, tôi thấy các cô chiêu đãi viên hàng không (CDVHK) đi qua, rồi đi lại nhìn đám chúng tôi, có cô đi vào phòng lái, rồi ra nhìn chúng tôi nhiều lần. Tôi nghe nói Tr/tá Tuấn hình như có quen biết với vị trưởng phi cơ, (nghe tên hình như là Đại tá Phương hay Phong của KQ), nên tôi nghĩ không có gì lạ. Cuối cùng thì 1 cô CDVHK đến trước tôi và hỏi: có thể cho cô biết tôi là con của ai? Thân phụ tôi tên gì? Sau khi tôi trả lời thì cô đi vào phòng lái. Lúc sau cô lại đến hỏi tôi lần nữa là muốn biết tên thật của tôi và cha mẹ tôi, và tôi cũng trả lời như đã nói với cô lần trước, cô trở vào phòng lái. Vài phút sau thì tôi thấy cô đi ra với viên phi công. Viên phi công sau khi bắt tay và chào thăm Tr/tá Tuấn thì ông bước đến và hỏi tôi như cô CDVHK đã hỏi tôi lần thứ hai, và tôi cũng trả lời như trước. Ông nhìn tôi thật kỹ, rồi trở vào phòng lái. Tôi băng khoăn, suy nghĩ một lúc thì chợt hiểu, à… thì ra vì T.T. Thiệu ra lệnh cấm cả nước không ai được xuất ngoại mà tự nhiên có 1 tên theo phi hành đoàn đi ra ngoại quốc thì chắc là “Con Ông Cháu Cha” được cha mẹ gởi ra ngoại quốc để tránh bị động viên, tránh bị bắt vào lính! Tôi ngồi đó mỉm cười và lòng cảm thấy thích thú.
Đến Hồng Kông chúng tôi chuyển sang 1 chuyến bay khác để đi Đài Loan. Tôi ở Đài Bắc chơi trong những ngày phi hành đoàn đi Đài Nam để bay thử chiếc C-47. Tôi rãnh rỗi và có nhiều thì giờ đi chơi đây đó. Tôi thích nhất là thăm được viện bảo tàng nằm ở ngoại ô Đài Bắc, trên sườn đồi với những đồ vật cổ kính và quí giá của các vị vua được mang sang từ Trung Hoa lục địa, khi Trung Hoa lục địa bị rơi vào tay Cộng Sản.
Những ngày vui qua mau, chiếc C-47 được mang về Đài Bắc và thủ tục giấy tờ để đem về Việt Nam đã xong. Khi cất cánh rời Đài Bắc rồi, thì Tr/Tá Tuấn hỏi tôi có muốn bay C-47 không? Tôi thích thú trả lời muốn thì ông cho tôi lên phòng lái, chỉ cho tôi những điều cần thiết, ông cho tôi ngồi vào ghế của ông, tôi bay cho tới khi vị Navigator gọi Hồng Kông xin đáp thì tôi rời và trả ghế lại cho Tr/tá Tuấn. Ngồi ghế của Tr/tá Tuấn trên chiếc C-47 cho tôi cảm giác vừa lạ, vừa thích thú và thấy thì gian qua mau.
Tôi không biết thời gian ở tại Hồng Kông trong chương trình là bao lâu hay có lệnh thế nào mà chúng tôi ở Hồng Kông hơn 1 tuần. Thời gian ở đây tôi được 2 thanh niên người Hoa biết nói tiếng Việt, gốc ở Chợ Lớn đến khách sạn, hướng dẫn đi ăn uống, mua đồ, đi chơi, và thăm viếng nhiều thắng cảnh. Trong 1 bữa đi chơi tôi có hỏi thăm anh hướng dẫn viên là trong trường hợp nào đã đưa các anh qua xứ Hồng Kông này? thì anh cho tôi biết có nhiều thanh niên như anh đang sống tại đây, sanh đẻ, và lớn lên ở Chợ Lớn. Đến khi tới tuổi đi lính thì cha mẹ sợ các anh bị chết, nên đã trả tiền cho tàu buôn để các anh được trốn dưới gầm tàu sang đây để khoải phải bị bắt đi lính. Ở đây sống nhờ nhà bà con hay bạn bè của cha mẹ. Vì không có giấy tờ hợp pháp để có thể đi làm, nên các anh sống nhờ tiền cha mẹ gởi qua, và làm nghề đưa mối buôn bán, kiếm thêm chút tiền hoa hồng. Sau những ngày vui chơi, giờ đã đến lúc trở về Việt Nam, về với bổn phận, về với nhiệm vụ.
Lên trình diện phi đoàn và tiếp tục cùng với anh em thực hiện những phi vụ được giao phó hằng ngày. Sau này khi có dịp nói chuyện với anh Hoa, tôi muốn tìm hiểu nên hỏi anh: lý do nào tôi được BTLKQ cho đi nghỉ dưỡng sức ở Đài Loan? thì anh cho biết, những tháng trước đó số giờ bay mà phi đoàn báo cáo lên BTLKQ hằng ngày rất cao, nên để tưởng thưởng cho phi đoàn thì BTLKQ mới cho 1 chổ trong chuyến đi đó. Tôi lại hỏi anh: lý do nào tôi được chọn? Anh trả lời tôi: bộ chỉ huy phi đoàn họp lại và thấy anh em ai cũng xứng đáng được sự tưởng thưởng này, nhưng phải chọn 1 người thì không biết phải chọn ai? Nên cuối cùng, bộ chỉ huy phi đoàn quyết định cộng hết giờ bay của tháng trước, của từng nhân viên phi hành, và nếu ai có số giờ bay cao nhất thì sẽ được đi. Anh nói tiếp: hầu hết anh em đã bay trên 200 giờ trong tháng đó. Nhưng riêng số giờ của tôi và Tr/uý Mã qưới Trung (biệt danh Mr. Trung Horse) là cao nhất, tôi hơn ĐB Trung 2 giờ. Tôi nhớ lại trong tháng đó ĐB Trung đã phải nghỉ 1 ngày không bay, vì bị áo giáp trước ngực quá nặng đè lên bọng đái, tiểu ra máu, và phải nghĩ đi khám bệnh. Nếu ĐB Trung không bị bệnh thì chắc tôi không được làm C.O.C.C. (như đã bị hiểu lầm).
Cảm ơn các Niên Trưởng là những cấp chỉ huy trực tiếp của chúng tôi. Các anh đã chia sẻ gánh nặng, mệt nhọc, nguy hiểm với chúng tôi trong những phi vụ đi thì có, về thì... cũng như đã đối xử công bình và tốt với anh em chúng tôi, trong thời gian chúng tôi phục vụ dưới quyền các anh. Ngày hôm nay dầu ở nơi nào, hoàn cảnh ra sao, chúng tôi vẫn luôn kính trọng và quí mến các anh.
Hồ viết Yên
K7/68KQ - PĐ237 / PĐ241 Chinook
|